Điểm sách Vietnam 1946: How the War Began (From Indochina to Vietnam: Revolution and War in a Global Perspective) của Stein Tonnesson, NXB ĐH California, Berkeley, 2010.[1]
*
Năm 1946 là một thời điểm rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam khi nước này vừa thoát ra khỏi ách thuộc địa. Trong quyển Vietnam 1946,
sử gia Na Uy Stein Tonnesson theo dõi quá trình diễn biến quan hệ
Việt-Pháp từ nhân nhượng đến xung đột qua hai biến cố: Hiệp định sơ bộ
6-3-1946 và biến cố 19-12-1946 khi chiến tranh bùng nổ. Tonnesson trình
bày hai phát hiện quan trọng. Thứ nhất, Hiệp định sơ bộ 6-3 có được do
công của các tướng lãnh Quốc dân Đảng Trung Quốc đã cố gắng môi giới cho
cả hai bên Pháp Việt tiến hành đàm phán. Mặc dù thực ra sau năm 1945,
Paris chỉ muốn bảo vệ quyền lợi của Pháp ở Nam bộ, các viên chức Pháp ở
Đông Dương đặt kế hoạch giành quyền kiểm soát lâu dài cả miền Bắc khi họ
điều quân ra Bắc để thay thế quân đội chiếm đóng Quốc dân Đảng Trung
Quốc. Nếu không có phía Quốc dân Đảng Trung Quốc gây áp lực mạnh đối với
cả hai bên Pháp Việt để ký Hiệp định sơ bộ 6-3, chiến tranh có lẽ đã
bùng nổ vào lúc đó. Phát hiện thứ hai của Tonnesson liên quan đến câu
hỏi ai chịu trách nhiệm đối với việc chiến tranh nổ ra vào ngày
19-12-1946. Cũng như đối với trường hợp trên, Tonnesson cho thấy những
viên chức Pháp ở Đông Dương làm trái với chỉ thị của chính phủ Pháp khi
họ khiêu khích chính phủ Việt Minh để nhử Việt Minh tấn công trước. Quân
đội Việt Minh đã cố gắng không trả đũa các trò khiêu khích của quân
Pháp trong một thời gian, nhưng cuối cùng đã sập bẫy và nổ súng vào ngày
19-12, chỉ vài ngày sau khi chính phủ Đảng Xã hội lên cầm quyền ở Pháp
và mở ra triển vọng đạt được hòa bình bằng con đường thương thuyết.
Tonnesson cũng phê bình tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng tư lệnh của Việt
Nam, vì đã ra lệnh khai chiến hoặc đã không ngăn cản được binh sĩ của
ông ta nổ súng vào đêm 19-12-1946.
Tonnesson sử dụng rất nhiều tài liệu
chủ yếu từ các kho lưu trữ ở các nước phương Tây. Rất rõ ràng và thuyết
phục, ông cho thấy vì nhiều lý do, Paris đã bỏ bê tình hình ở Đông
Dương, thông tin giữa Paris và Sài gòn (nơi Cao ủy Pháp đóng bản doanh)
bị lệch pha, và các chỉ huy Pháp ở Sài gòn đã có những hành động dẫn đến
chiến tranh. Chủ yếu dựa trên tư liệu Pháp kết hợp với một ít tư liệu
Việt Nam, Tonnesson dựng lại bức tranh khá chi tiết mô tả các biến cố
xảy ra từng giờ trong ngày 19-12 cực kỳ quan trọng. Bức tranh này phức
tạp hơn nhiều so với câu chuyện chúng ta vẫn nghe về biến cố này như một
cuộc tấn công bất ngờ vào lực lượng Pháp do quân đội Việt Minh tổ chức.
Mặc dù tướng Giáp đúng là có soạn ra một kế hoạch tấn công như vậy từ
trước, Tonnesson cho thấy rằng quyết định tấn công chỉ được đưa ra vài
giờ trước khi nổ súng, và cũng không thể loại trừ khả năng binh sĩ dưới
quyền tướng Giáp tự tiện nổ súng không có lệnh trên [và ông ta chỉ còn
cách phải tuyên chiến với Pháp vì việc đã lỡ xảy ra].
Không chỉ soi rọi các biến cố
xảy ra trong năm 1946, công trình của Tonnesson còn có ba đóng góp rộng
hơn đối với lịch sử Việt Nam. Đóng góp thứ nhất là về vai trò của Quốc
dân Đảng Trung Quốc trong diễn tiến lịch sử Việt Nam. Cho đến nay, giới
sử học đã coi nhẹ vai trò của Quốc dân Đảng Trung Quốc đối với sự tồn
tại của chính phủ Hồ Chí Minh. Nếu người Trung Quốc đã làm như người Mỹ ở
Seoul (từ chối không công nhận một chính phủ thiên tả vừa mới thành lập
sau khi Nhật đầu hàng), hay như người Anh ở Sài Gòn và Jakarta (cho
phép quân đội Pháp và Hà Lan trở lại khôi phục thuộc địa cũ đã bị Nhật
chiếm trong Thế chiến II), chính phủ Hồ Chí Minh có rất ít cơ hội sống
sót. Bộ chỉ huy quân chiếm đóng Quốc dân Đảng Trung Quốc giúp chính phủ
Hồ Chí Minh qua việc ép buộc các nhóm chống cộng là Việt Nam Quốc dân
Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội phải tham gia vào chính phủ
Việt Minh và ký Hiệp định sơ bộ 6-3. Mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương
không thực sự chia sẻ quyền lực với các nhóm này, việc họ tạm thời chấp
nhận tham gia vào chính phủ Việt Minh cho phép chính phủ này tuyên bố là
Việt Minh đại diện cho tất cả mọi giai cấp và phe nhóm Việt Nam. Thay
vì cảm ơn Tưởng Giới Thạch và các tướng lĩnh của ông ta, lịch sử quan
phương ở Việt Nam lại chê trách họ: người Trung Quốc bị xem là một kẻ
thù còn tệ hơn người Pháp. Các học giả Tây phương (trừ King Chen) cũng
rất hay chỉ ra tính chất vô kỷ luật và thổ phỉ của quân đội Quốc dân
Đảng Trung Quốc, nhưng quên mất vai trò quan trọng của họ đối với vận
mệnh chính phủ Hồ Chí Minh.
Đóng góp thứ hai của Vietnam 1946
là góp thêm chứng cứ cho luận điểm ngược lại với quan điểm lịch sử quan
phương về sự lãnh đạo tập trung của Đảng Cộng sản Đông Dương trong và
sau “Cách mạng tháng Tám.”[2] Bức tranh ngày càng rõ nét cho thấy một
Đảng Cộng sản Đông Dương yếu ớt, phải dựa vào những lực lượng khác để
giữ chính quyền, mặc dù có thể Đảng này có tổ chức mạnh nhất so với tất
cả. Đảng có rất ít quyền kiểm soát đối với chính quyền địa phương ngoài
những thành phố lớn. Việc giải thể Đảng Cộng sản Đông Dương vào cuối
năm 1945 làm cho tình hình này tồi tệ hơn. Dựa trên tư liệu của tình báo
Pháp, Tonnesson (tr. 24) suy đoán rằng “công tác Đảng bị các lãnh đạo
Đảng (nếu không phải là chính Trường Chinh) xem nhẹ trong giai đoạn
1946-47 vì họ bận rộn với công việc quản lý nhà nước.” Giả thuyết binh
sĩ của tướng Giáp nổ súng tấn công Pháp bất chấp lệnh trên vào tối 19-12
góp thêm một chi tiết vào bức tranh chung trên.
Thứ ba, Tonnesson chia tay với
một xu hướng chủ đạo trong Việt Nam học từ thập niên 1960. Các học giả
theo xu hướng này né tránh việc phê phán các lãnh tụ cộng sản Việt Nam
khi cần phải phê phán.[3] Theo xu hướng này, những người cộng sản được
mô tả như chỉ quan tâm thuần túy và chính đáng đến việc giành độc lập
dân tộc, nhưng bị buộc phải tiến hành chiến tranh tự vệ chống lại các
thế lực xâm lược ngoại bang. Có vẻ như họ không bao giờ phạm sai lầm, mà
nếu có phạm thì cũng rất thành thật thú nhận. Xu hướng này có lẽ do
việc nhiều sử gia quá tin vào hồi ký của các lãnh tụ cộng sản như Trần
Huy Liệu và Võ Nguyên Giáp. Không có gì lạ khi các nhân vật này tô vẽ
hào quang lên Đảng của họ và lờ đi những sai lầm. Tonnesson mở đầu quyển
Vietnam 1946 bằng việc kiểm điểm lại số người chết vì chiến tranh ở
Việt Nam trong thế kỷ 20. Con số này lên đến hàng triệu người, cả người
Việt lẫn nước ngoài. Tonnesson tin rằng tất cả những cuộc chiến tranh
này đều có thể đã tránh được nếu chính phủ Việt Minh đã biết tự kiềm chế
vào cái ngày định mệnh 19-12-1946 đó. Trong khi Tonnesson không trách
Hồ Chí Minh về biến cố này, ông cho rằng Võ Nguyên Giáp có trách nhiệm
để cho chiến tranh xảy ra, mặc dù trách nhiệm của ông ta ít hơn các quan
chức Pháp như Đô đốc Georges D’Argenlieu, Leon Pignon, và tướng
Jean-Etienne Valluy. Tệ hơn nữa, Tonnesson cho rằng Võ Nguyên Giáp là
một người bướng bỉnh tự cho rằng ông ta không có trách nhiệm gì, mặc dù
các chứng cớ lịch sử cho thấy khá rõ trách nhiệm của ông ta để cho chiến
tranh xảy ra. Theo Tonnesson (tr. 257), “Đối với tướng Giáp, người chịu
trách nhiệm rất lớn không chỉ đối với quyết định tấn công [ngày 19-12],
nhưng đối với tất cả những thiệt hại nhân mạng và các khổ đau khác
trong những cuộc chiến kế tiếp ở Đông Dương, ý nghĩ rằng chuỗi thảm kịch
đó có thể bắt đầu từ một sự hiểu lầm là không thể chấp nhận được.”
Quyển sách có một điểm yếu quan
trọng: đó là việc dùng rất ít tư liệu từ Việt Nam. Mặc dù Kho lưu trữ
của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa cho phép các nhà nghiên cứu sử dụng
tư liệu, có nhiều bộ Văn kiện Đảng đã được xuất bản, đặc biệt là bộ mới
in gần đây từ năm 1999.[4 ]Các văn kiện trong Tập 8 (1945-1947) của bộ
sách này cho thấy rõ sự tồn tại của cơ quan Thường vụ Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương vào thời điểm này.[5] Nhân vật bí ẩn trong tư liệu
tình báo Pháp có tên là “Nhân Nhân” rất có thể là Trường Chinh, vì ông
ta đôi khi ký tên Nhân dưới một số văn kiện.[6]
Chỉ đọc lướt qua Tập 8 nói ở
trên, chúng ta có thể nêu thêm bốn sự việc quan trọng nhìn từ phía Việt
Nam để bổ sung bức tranh phía Pháp do Tonnesson vẽ ra. Sự việc thứ nhất
là chính phủ Hồ Chí Minh có vẻ sợ các đối thủ Việt Nam (Việt Nam Quốc
dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội) hơn sợ Pháp. Trong một văn
kiện ngày 3-3-1946, Thường vụ Trung ương giải thích lý do Đảng quyết
định ký Hiệp định sơ bộ 6-3 với Pháp như sau. Trung ương Đảng nghĩ rằng
nếu Việt Minh đánh nhau với Pháp sẽ có lợi cho Việt Nam Quốc dân Đảng và
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội chứ không có lợi cho Đảng Cộng sản
Đông Dương. Lãnh tụ Đảng thừa nhận rằng “chủ hòa lúc này có hai chỗ nguy
hiểm: a) Bọn phản động lợi dụng tinh thần kháng chiến của quần chúng mà
tuyên truyền phỉnh dân và vu ta là phản quốc, là bán nước cho Tây; b)
bọn thực dân Pháp có thể tăng gia lực lượng trên đất ta để một ngày kia
bội ước diệt ta.” Tuy nhiên, lãnh đạo Đảng cho rằng có hai điều lợi lớn
khi ký Hiệp định sơ bộ: một là “phá được mưu mô bọn Tàu trắng, của bọn
phát xít, và của bọn Việt gian, bảo toàn được thực lực;” và hai là,
“dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới… tiến tới
giành độc lập hoàn toàn.”[7] Một trong những biện pháp đầu tiên Đảng
muốn thi hành ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ là “lợi dụng thời gian hòa
hoãn với Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu trắng,
trừ những hành động khiêu khích ly gián ta và Pháp.” Văn kiện này chứng
tỏ rằng cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm người Việt cũng
quan trọng không kém cuộc tranh giành độc lập giữa tất cả người Việt và
thực dân Pháp. Việc Đảng Cộng sản Đông Dương e ngại các kẻ thù người
Việt hơn là Pháp cho thấy rằng các biến cố năm 1946 không chỉ liên quan
đến nền độc lập của Việt Nam mà còn đến việc giành quyền lãnh đạo đất
nước của các đảng phái Việt Nam.
Sự việc thứ hai: tư liệu Việt
Nam cho thấy lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương kỳ vọng rất nhiều vào
Hiệp định sơ bộ 6-3, không phải như Tonnesson (tr. 5) nghĩ rằng họ chỉ
ký cho xong chuyện nhưng sau đó sẽ tìm cách thoái thác thi hành. Thực ra
họ coi Hiệp định sơ bộ 6-3 là một bước tiến quan trọng so với tuyên bố
của De Gaulle cho Đông Dương tự trị ngày 24-3-1945. Mặc dù theo Hiệp
định sơ bộ 6-3, Việt Nam chưa được độc lập, một văn kiện Đảng viết rằng
“Pháp đã từ bỏ tham vọng lập lại chế độ thuộc địa tại Việt Nam và công
nhận nguyên tắc tự do và thống nhất của ta. Kẻ thù trực tiếp của chúng
ta bây giờ là bọn phản động Pháp…”[8] Ít nhất là vài tháng sau khi ký
Hiệp định sơ bộ, lãnh đạo Đảng vẫn muốn tiếp tục đàm phán trên cơ sở
Hiệp định sơ bộ chứ không phải thoái thác thi hành, mặc dù họ vẫn tiếp
tục chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh vũ trang nếu cần thiết. Thái độ lạc
quan của họ khi nghĩ rằng người Pháp đã từ bỏ tham vọng lập lại chế độ
thuộc địa có lẽ là lý do tại sao Đảng Cộng sản Đông Dương sợ Pháp ít hơn
sợ các đảng phái Việt Nam khác.
Sự việc thứ ba: Tonnesson chĩa
mũi dùi phê phán vào tướng Giáp với tư cách người chịu trách nhiệm chính
bên phía Việt Nam đối với việc chiến tranh bùng nổ. Tonnesson có nhắc
đến việc Trường Chinh thuộc phe chủ chiến, nhưng tư liệu Việt Nam cho
thấy giàn lãnh đạo chóp bu của Đảng Cộng sản Đông Dương đều ủng hộ tướng
Giáp. Sau vụ tàn sát ở Hải Phòng, Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác (Đảng
Cộng sản Đông Dương trá hình) ra tuyên bố khen ngợi các chiến sĩ Việt
Nam đánh nhau với Pháp ở Hải Phòng và Lạng Sơn và kêu gọi cảnh giác và
tăng cường chuẩn bị chiến tranh. Tuyên bố này nói rằng Tạm ước 14-9-1946
(do chủ tịch Hồ Chí Minh ký ở Pháp) là “một bước nhân nhượng cuối
cùng.”[9] Cùng lúc đó, Trường Chinh viết một bài với giọng điệu sặc mùi
chiến tranh và máu lửa: “toàn dân sẵn sàng đứng dậy; tay đã để vào cò
súng, mắt đã ngắm vào đầu bọn cướp nước, những bắp thịt đã căng thẳng;
chỉ chờ lệnh là hàng triệu người ào tới băm vằm quân tàn bạo.” Trường
Chinh hướng mối căm thù của ông ta không chỉ vào thực dân Pháp mà vào cả
những người Việt không thích chiến tranh: “Phải gạt phăng những lời
khuyên đầu hàng của bọn tự nhận là “bạn” ta hay của thù ta. Phải kịp thủ
tiêu những chủ trương tháo lui, dao động của những kẻ non gan trong
hàng ngũ dân tộc. Phải trừng trị thẳng tay những kẻ làm tay sai cho
địch, bất kỳ trong tầng lớp nhân dân nào… Trước khi xông lên ngăn địch,
phải chặt những dây dợ vướng chân.”[10] Mặc dù tướng Giáp có thể đã một
mình ra quyết định nổ súng vào tối hôm đó, chắc hẳn ông ta có sự đồng
thuận của ban lãnh đạo Đảng. Các biến cố năm 1947 ăn khớp với cách suy
luận này. Sau khi chiến tranh bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu
tập Hội nghị Cán bộ Trung ương để phân tích tình hình thế giới và trong
nước, đồng thời thảo luận các chính sách và kế hoạch cần thiết. Bản nghị
quyết dài 33 trang của Hội nghị này chỉ nói đến công tác ngoại giao
trong một đoạn ngắn như trích dẫn một phần dưới đây:
Vấn đề ngoại giao: vấn đề Việt
Nam vừa được đem ra bàn cãi náo nhiệt ở Quốc hội Pháp. Đảng Cộng sản
Pháp, Tổng Liên đoàn Lao động Pháp vừa tỏ rõ thái độ đối với Chính phủ
Pháp giảng hòa với Việt Nam. Bọn Đờ Gôn lại hoạt động mưu cho phản động
thế giới mà lật đổ chế độ cộng hòa Pháp. Đứng trước tình hình ấy, đoàn
thể [đây là nói đến Đảng Cộng sản Đông Dương] phải theo dõi từng tí thời
cuộc và chính trị nước Pháp. Nếu Pháp nhận Việt Nam độc lập và thống
nhất, nhưng phải làm cho cán bộ và nhân dân hiểu rằng, chưa đánh đến hết
gia đoạn thứ ba của cuộc trường kỳ kháng chiến, thì dù có dàn xếp cũng
chưa thể giải quyết hẳn được sự xung đột giữa ta và thực dân Pháp. Chẳng
qua tạm hòa hoãn để dành thời gian, v.v… Bởi vậy tuy phải lợi dụng hết
khả năng ngoại giao, làm cho cuộc đổ máu Việt-Pháp rút ngắn lại, nhưng
không thể có thái độ chủ quan đối với những cuộc đàm phán và nhất là
không được sơ hở để quân địch lợi dụng… đánh úp ta.[11]
Lãnh đạo Đảng có vẻ không đặt
nhiều niềm tin vào chính phủ Đảng Xã hội của Pháp, cũng không có vẻ
luyến tiếc rằng chiến tranh đã xảy ra. Mặc dù Hồ Chí Minh vẫn tìm cách
đàm phán với Pháp và giao một số Bộ trong chính phủ cho các nhân vật
không cộng sản vào đầu năm 1947, Trường Chinh và Lê Đức Thọ ban những
chỉ thị cảnh cáo nghiêm khắc quần chúng không nên đặt quá nhiều hy vọng
vào ngoại giao.[12]
Sự việc thứ tư: Tonnessson (tr.
10) cho rằng “bổn phận căn bản nhất của mọi chính phủ” là bảo vệ hòa
bình, nhưng tư liệu Việt Nam chỉ ra rằng nhiều lãnh tụ Việt Nam không
nghĩ như vậy. Quan điểm của họ về chiến tranh và hòa bình phải được đặt
trong thế giới quan Mác-Lê đầy dẫy những tư tưởng cách mạng cực
đoan.[13] Theo thế giới quan này, tương lai của thế giới sẽ được quyết
định trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội. Hòa bình với đế quốc chỉ là tạm thời vì bản chất của đế
quốc là hiếu chiến và làm giàu nhờ chiến tranh. Hơn nữa, chính trị quốc
tế không thể tách rời chính trị quốc nội. Như Trường Chinh từng tuyên
bố, những người cộng sản Việt Nam có thể chấp nhận đoàn kết giai cấp tạm
thời vì quyền lợi dân tộc, nhưng không bao giờ chấp nhận “thỏa hiệp
giai cấp” (hy sinh các quyền lợi căn bản của giai cấp mình vì mục tiêu
đoàn kết dân tộc).[14] Việc chung sống hòa bình với bọn đế quốc hay hòa
hoãn với kẻ thù giai cấp có vị trí thấp trên thang giá trị của những nhà
cách mạng Việt Nam mà tiêu biểu là Trường Chinh. Cuộc chiến tranh với
Pháp năm 1946, nếu đúng như Tonnesson mô tả, thể hiện hành vi giống với
cuộc cải cách ruộng đất từ năm 1953 đến 1956 mà thực chất là một cuộc
đấu tranh giai cấp tàn bạo. Đánh giá theo hướng này, quyết định của
tướng Giáp tấn công quân Pháp vào đêm 19-12-1946 không chỉ là một sai
lầm chiến lược (như Tonnesson lập luận) mà là kết quả tự nhiên của những
bộ óc cuồng tín thích tôn vinh những hy sinh cho các sự nghiệp “cao cả”
không chỉ cho độc lập dân tộc mà còn cho cách mạng thế giới.
Để kết luận, dù sử dụng rất ít
tư liệu Việt Nam, Vietnam 1946 là một công trình nghiên cứu có giá trị
cao. Tonnesson đã giúp chúng ta hiểu biết thêm không chỉ về các sự kiện
năm 1946 mà còn về lịch sử Việt Nam.
Chú thích
1. Dịch từ nguyên văn
tiếng Anh trên Tạp chí mạng H-Diplo của Hội Nghiên cứu Lịch sử quan hệ
đối ngoại Mỹ. Xem bài của các tác giả khác cùng điểm sách của Tonnesson
và bài trả lời của ông tại trang web:
http://www.h-net.org/~diplo/roundtables/PDF/Roundtable-XI-19.pdf
2. Về những luận điểm trái với lịch sử quan phương, xem Stein Tonnesson, The Vietnamese Revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh, and De Gaulle in a World at War (Oslo: International Peace Research Institute, 1991); David Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley: University of California Press, 1995) và Vu Tuong, Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia (New York: Cambridge University Press, 2010).
3. Vu Tuong, "Vietnamese Political Studies and Debates on Vietnamese Nationalism," Journal of Vietnamese Studies, 2: 2 (2007), 175-230.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, 1999-2007).
5. Tonnesson (sđd, tr.
29) bày tỏ nghi ngờ về sự tồn tại của cơ quan này, và dựa theo một tài
liệu Việt Minh bị Pháp bắt được, kết luận rằng cơ quan này có thật.
6. Tonnesson (sđd, tr.
171) đoán rằng nhân vật này không thể là Trường Chinh vì Trường Chinh
không đeo kính như người mà mật thám Pháp theo dõi, nhưng tên “Nhân
Nhân” và những chi tiết khác cho thấy người đó là Trường Chinh.
7. “Tình hình và chủ trương.” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, 45.
8. “Chỉ thị của Ban T.V.T.Ư., 9-3-1946. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 50.
9. “Lời kêu gọi quốc dân,” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 148.
10. “Đánh và sẵn sàng đánh,” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 452-453.
11. “Nghị quyết Hội nghị cán bộ trung ương,” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 186.
12. Vu Tuong, “It’s Time
for the Indochinese Revolution to Show Its True Colors: The Radical Turn
in Vietnamese Politics in 1948,” Journal of Southeast Asian Studies 40: 3 (Oct 2009), tr. 528.
13. Xem Vu Tuong, “From
Cheering to Volunteering: Vietnamese Communists and the Arrival of the
Cold War 1940-1951,” trong Christopher Goscha and Christian Ostermann,
eds. Connecting Histories: The Cold War and Decolonization in Asia (1945-1962) (Stanford University Press, 2009); và “Dreams of Paradise: The Making of a Soviet Outpost in Vietnam.” Ab Imperio (August 2008), tr. 255-285.
14. Vu Tuong, Paths to Development in Asia, tr. 196.
Vũ Tường là Giáo sư (Assistant Professor), ngành Khoa học Chính trị, Đại học Oregon.
http://ta-la-was.blogspot.sg/2010/08/vu-tuong-oc-viet-nam-1946-chien-tranh.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét