Biên dịch: Phan Văn Song
Nguồn: François-Xavier Bonnet, “Archaeology and Patriotism:
Long term Chinese Strateggies in the South China Sea“, Southeast Asia Sea
conference, Ateneo Law Center, Makati, March 27 2015.
Nhiều tác giả của Trung Quốc nêu thời gian đoàn thám hiểm
Trung Quốc tới quần đảo Hoàng Sa là năm
1902. Tuy nhiên, không ai trong số họ đưa ra bất kỳ tài liệu nào cho thấy chuyến
đi này đã diễn ra.
Trên thực tế, tư liệu của Trung Quốc lại cho thấy chuyến đi
đó chưa bao giờ diễn ra. Thay vào đó là một chuyến đi bí mật nhiều thập kỷ sau
để “cấy” bằng chứng khảo cổ ngụy tạo trên các đảo này nhằm củng cố yêu sách
lãnh thổ của Trung Quốc. Mưu chước tương tự cũng đã được áp dụng ở quần đảo Trường
Sa: các bia chủ quyền năm 1946 trên thực tế đã được đặt sau đó 10 năm, vào năm
1956.
Giáo sư Marwyn Samuels, trong cuốn sách nổi tiếng của ông
Contest for the South China Sea (tạm dịch: Cuộc thi thố vì Biển Đông) đã trách
cứ các học giả phương Tây nào nói phái đoàn chính thức đầu tiên của Trung Quốc
tới quần đảo Hoàng Sa vào năm 1909.
Ông này khẳng định chuyến đi đầu tiên này diễn ra năm 1902.
Theo Samuels, chuyến thẩm tra đầu tiên này do đề đốc Lý Chuẩn chỉ huy và là nỗ
lực đầu tiên để thực hiện công ước Pháp – Thanh 1887, khẳng định quyền của
Trung Quốc đối với các đảo này [1].
Kể từ công trình này của Samuels, việc dẫn sự kiện “không thể
tranh cãi” đó vào các sách báo liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông đã biến
thành chuyện thông thường. Tuy nhiên, không một ai trong số các tác giả sau này
có thể chứng minh được nhận định của Samuels.
Chiến dịch khảo cổ
thập niên 1970 và
chuyện
kể trường thiên
Từ năm 1974-1979, một số cuộc khảo cổ đã được quân đội Trung
Quốc (PLA) và các nhà khảo cổ học tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa. Trong số các
hiện vật mà những đoàn khảo cổ tìm thấy có đồ sứ thuộc các thời kỳ khác nhau,
phế tích của chùa miếu và một số bia/mốc chủ quyền.
Những bia này đề năm 1902, 1912 và 1921. Năm 1973, tạp chí
Thập Kỷ 70 (Thất Thập Niên Đại) ở Hong Kong đã đăng ảnh một bia chủ quyền khắc
năm 1902 được tìm thấy trên một đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa [2]. Báo Hong
Kong Standard (Hương Cảng Bưu Báo) tường thuật những phát hiện ngày 6-3-1979
trong một bài báo có tựa đề “Bia chứng minh cho chủ quyền xa xưa”.
Cả hai bài báo này đều đăng ảnh một bia năm 1902 đã trở
thành nguồn thông tin duy nhất về chuyến đi “không thể chối cãi” năm 1902 cho
các học giả như Hungdau Chiu và Choon Ho Park và Marwyn Samuels vào năm 1982.
Trước năm 1979, không học giả phương Tây hay Trung Quốc nào
đề cập sự tồn tại của chuyến đi năm 1902. Chuyến đi chính thức có ghi nhận
trong lịch sử nhà Thanh là chuyến thẩm tra của đề đốc Lý Chuẩn năm 1909.
Chuyến thám hiểm “ma”
ở quần đảo Hoàng Sa
Có một lý do đơn giản vì sao không học giả nào tìm ra được bất
kỳ tài liệu lịch sử gì về chuyến đi năm 1902: nó chẳng hề xảy ra. Thay vào đó,
bằng chứng về chuyến đi năm 1902 đã được ngụy tạo muộn hơn nhiều: năm 1937.
Tháng 6-1937, trưởng khu hành chính số 9 của Trung Quốc
Hoàng Cường (Huang Qiang) đã được phái đến quần đảo Hoàng Sa với hai nhiệm vụ:
một là kiểm tra các báo cáo nói người Nhật đã xâm chiếm các đảo này và hai là
tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với chúng.
Theo các hồ sơ về chuyến công tác này của ông đề ngày
31-7-1937, ông rời Quảng Đông ngày 19-6 và đến quần đảo Hoàng Sa ngày 23-6.
Cùng ngày, ông đến bốn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trong nhóm An Vĩnh
(Amphitrite) – đảo Phú Lâm (Woody), đảo Đá (Rocky), đảo Lincoln (Ling Zhou/Linh
Châu) và đảo Bắc (Bei). Ngày hôm sau 24-6, ông quay lại Hải Nam.
Chuyến công tác ngắn và bí mật này đã được các nhà sử học
Trung Quốc Hàn Chấn Hoa (Han Zenhua), Lâm Kim Chi (Lin Jin Zhi) và Ngô Phượng
Bân (Wu Feng Bin) kể lại trong công trình chuyên đề “Ngã quốc Nam hải chư đảo sử
liệu hối biên” xuất bản năm 1988 [3].
Tuy nhiên, nếu họ có công bố báo cáo đề ngày 31-7-1937 thì họ
đã quên, dù có ý thức hay không, công bố phụ lục của báo cáo này. May thay, phụ
lục bí mật đó đã được Ủy ban địa danh tỉnh Quảng Đông công bố năm 1987 trong một
cuốn sách có tựa đề Tổng hợp khảo cứu địa danh tất cả các đảo Nam Hải (Biển
Đông) của chúng ta. Phụ lục này đưa ra các chi tiết về hoạt động của Hoàng Cường
ở quần đảo Hoàng Sa [4].
Trong phụ lục này, Hoàng Cường giải thích rằng theo kế hoạch,
tàu của ông đã chở theo 30 bia chủ quyền. Trong số đó có bốn bia thuộc thời nhà
Thanh, những bia khác thuộc năm 1912 (Trung Hoa Dân Quốc tròn 1 tuổi) và năm
1921.
Tuy nhiên, ông không mang theo bia năm 1937 do đây là chuyến
công tác bí mật. Nhóm của ông tìm thấy bốn bia thời nhà Thanh khắc năm 1902 tại
thành phố Quảng Đông. Theo phụ lục báo cáo của ông, nhóm của ông chôn các bia
này, ghi nhận tọa độ địa lý của chúng ở bốn đảo.
Trên đảo Bắc, họ chôn hai bia khắc năm 1902 và bốn cột đề
năm 1912. Trên đảo Lincoln, đội chôn một bia khắc năm 1902, một cột bia năm
1912 và một bia năm 1921.
Trên đảo Phú Lâm, hai bia khắc năm 1921 đã được chôn. Cuối
cùng, trên đảo Đá (Shi Dao, Thạch đảo), họ chỉ đặt một bia khắc năm 1912.
Tóm lại, năm 1937 phái đoàn đã đặt tổng cộng 12 bia trên các
đảo, trong đó có ba bia ghi năm 1902. Các bia này đã bị quên lãng từ 1937-1979
nhưng sau đó đã được các nhà khảo cổ và PLA “phát hiện ra” từ năm 1974-1979. Điều
này gần như chắc chắn là lời giải thích cho câu văn bí ẩn trong cuốn sách của
Samuels khi ông viết rằng các bia năm 1902 được cho là đã bị mất trong Chiến
tranh thế giới thứ hai [5].
Những chuyến đến Hoàng Sa "cấy" bằng chứng khảo cổ
giả
Tư liệu về chuyến công tác bí mật tháng 6-1937 (nguồn: Ủy
ban địa danh tỉnh Quảng Đông (Guang dong sheng di ming wei yuan hui), Sưu tập
tư liệu về địa danh các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) (Nan Hai zhu dao di ming zi
liao hui bian), Nhà xuất bản bản đồ Quảng Đông (Guangdong sheng di tu chu ban
she), 1987, tr.289)
Những bí ẩn của các dấu chủ quyền ở quần đảo Trường Sa
Hầu hết các sách, bài viết và tuyên bố chính thức cho rằng
Trung Quốc đã chiếm lại quần đảo Trường Sa vào năm 1946 từ tay Nhật và đã dựng
các bia chủ quyền trên một số đảo. Chuyện này đã được tác giả Đài Loan Trương
Chấn Quốc (Zhang Zhen Guo) kể lần đầu tiên trong cuốn sách của ôngChuyến đi đến
Nam Sa (Nansha xing, Nam Sa hành) viết năm 1957 nhưng xuất bản năm 1975 [6].
Trương Chấn Quốc, đội phó trong chuyến đi của Đài Loan tới
quần đảo Trường Sa năm 1956, đã viết rằng trong chuyến đi năm 1946 dưới quyền
tư lệnh Mạch Uẩn Du (Mai Yun Yu), đoàn đã nắm quyền kiểm soát ba hòn đảo, cụ thể
là đảo Taiping (đảo Thái Bình/Itu-Aba/ Ba Bình), Nam Wei (đảo Nam Uy/Trường Sa)
và đảo Xi Yue (đảo Tây Nguyệt/West York/Bến Lạc).
Trên ba đảo này, nhóm của Mạch Uẩn Du dựng các bia chủ quyền
khắc năm 1946 [7]. Tuy nhiên, khi cuốn sách của Trương Chấn Quốc xuất bản vào
năm 1975, Mạch Uẩn Du vẫn còn sống và đã đọc nó. Điều đó là một cú sốc đối với
ông!
Thật ra, ông nhìn nhận rằng dù nhóm của ông đã có đến đảo Ba
Bình vào tháng 12-1946, phá hủy các bia của Nhật và đã trồng hai bia chủ quyền
(phía bắc và nam của đảo) nhưng họ chưa hề đi đến đảo Trường Sa và đảo Bến Lạc.
Thật ra, theo các hồ sơ chính thức, khi Thomas Cloma của
Philippines tuyên bố sở hữu đối với quần đảo Trường Sa (Freedomland) vào năm
1956, Đài Loan đã có ba lần tuần tra quần đảo này (hai tàu từ ngày 2 tới 14-6,
ba tàu từ 29-6 đến 22-7 và hai tàu từ 24-9 tới 5-10).
Trong những lần tuần tra này, binh sĩ đã tổ chức lễ chào cờ,
dựng bia chủ quyền trên ba đảo Ba Bình, Trường Sa, Bến Lạc. Tuy nhiên, các bia
này có khắc năm 1946 nhưng 10 năm sau mới được đưa tới, vào năm 1956, như một
mưu gian [8].
Khảo cổ và “yêu nước”:
Tính chính trị
của các bia
chủ
quyền
Các nhà khảo cổ có thành thật khi nói họ tìm thấy các cột mốc
ở quần đảo Hoàng Sa? Hoặc giả họ đã được PLA, vốn biết rõ chuyện này, kèm cặp?
Chúng ta không biết được.
Tuy nhiên, nếu chúng ta thêm màn diễn của quần đảo Trường Sa
vào, chúng ta có thể nhìn thấy một mưu đồ phức tạp và có hệ thống hơn về việc
ngụy tạo hồ sơ. Hai màn diễn này cho thấy những hạn chế của việc dựa vào các hiện
vật khảo cổ nhằm cố gắng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Vật thể có thể là
thật (từ các bảo tàng chẳng hạn) nhưng được chôn rất trễ sau này.
Trong cuộc chiến tranh tâm lý đối với các đảo ở Biển Đông,
thủ đoạn gian xảo này có thể trở thành thực tế. Điều này có vẻ là những gì đã xảy
ra trong những vụ việc này. Các huyền thoại đã xuất hiện trong nhiều công trình
viết bằng tiếng Anh và đã đi đến người đọc quốc tế.
Dù vậy, có vẻ rằng những huyền thoại này sẽ được một ít nhà
nghiên cứu có kiến thức về tiếng phổ thông và một nhóm các chuyên gia Trung Quốc
biết rất rõ. Tóm lại, điều đó gợi ra rằng “khảo cổ yêu nước” là sự lệch lạc sâu
đậm và các chuyên gia nên thận trọng trước khi dựa vào đó để đưa ra phán đoán về
tranh chấp lãnh thổ.■
François-Xavier Bonnet là nhà địa lý, nhà nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á đương đại Pháp (Irasec). Ông đã xuất bản cuốn Geopolitics
of Scarborough shoal (Địa chính trị bãi cạn Scarborough), tài liệu thảo luận
Irasec ngày 14-11-2012.
————————-
[1] Samuels, Marwyn S, Contest for the South China Sea, New
York: Methuen, 1982, trang 53
[2] Thất thập niên đại (số 3, tháng 3-1973 được Hungdah Chiu
and Choon Ho Park trích dẫn trong Legal Status of the Paracel and Spratly
islands, Ocean Development and International Law, 1975, trang 25
[3] Han Zhen Hua, Lin Jin Zhi và Wu Feng Bin, Sưu tập các
tài liệu lịch sử về các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) của chúng ta (Wo guo nan hai
zhu dao shi liao hui bian, Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hối biên), (Dong
fang Chu ban she, Đông Phương xuất bản xã), 1988, trang 210
[4] Ủy ban địa danh tỉnh Quảng Đông (Guangdong sheng di ming
wei yuan hui: Quảng Đông tỉnh địa danh ủy viên hội), Sưu tập tư liệu về địa
danh các đảo ở Nam Hải (/Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian, Nam hải chư
đảo địa danh tư liệu hối biên), Nhà xuất bản bản đồ tỉnh Quảng Đông (Guangdong
sheng di tu chu ban she, Quảng Đông tỉnh địa đồ xuất bản xã), 1987
[5] Samuels, trang 53
[6] Ủy ban, 1987, trang 290
[7] Ủy ban, 1987, trang 290
[8] Ủy ban, 1987, trang 291
Nguồn: Tuổi trẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét