Câu trả lời thật dễ hiểu, ai cũng biết là để chứng minh HS, TS có nguồn gốc, lịch sử lâu đời là của Viêt Nam. Quan trọng hơn, nhiều tài liệu, nhiều ghi chép trong thư tịch cổ, trong các sắc phong, các gia phả, và cả trong những bài văn viết… nói lên sự cư trú của người Việt xưa trên các đảo mình đã xác định chủ quyền từ lâu.
Tài liệu có tính xác thực, hiển nhiên thì nhiều. Ngoài nguồn tài liệu lưu truyền trong nước (sử sách, dân gian…) thì đã có nhiều học giả, nhà nghiên cứu, các chuyên viên trong, ngoài nước đã lặn lội khắp thế giới, tìm trong tài liệu lưu trữ, trong thư viện, các trường đại học… những bản đồ hàng hải (trong quá trình thương mại, tàu bè và sự xâm lược thuộc địa) đã để lại không ít (nếu không nói là quá nhiều) nói lên tính xác thực, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Rồi đến những tài liệu mang tính pháp lý quốc tế như Hiệp định Geneva, Hiệp định Paris, các Hoà ước Pháp Thanh… đều có thể là văn bản pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam và người Việt đã sinh sống bao đời trên các đảo trong hai quần đảo này. Tôi thật lòng tin tưởng và chắc chắn rằng với nhũng tài liệu nêu trên cọng thêm chuyện xương máu của các chiến sĩ ta còn rành rành ra đó, cụ thể nhất là khi TQ đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, cướp trên tay của VNCH, người đang có chủ quyền theo công pháp quốc tế và đang đóng, trấn tại quần đảo này.
Hơn 74 chiến sĩ đã hy sinh, sử sách không chỉ của ta mà chắc chắn của Mỹ còn ghi lại nỗi ô nhục đã bán rẻ, làm ngơ với đồng minh Việt Nam khi bạn lâm nguy. Và rồi cuộc xâm lược, chiếm đóng đảo Gạc Ma (trong quần đảo Trường Sa) năm 1988 của TQ từ tay nước Việt Nam thống nhất với hơn 64 thủy binh Việt Nam bị chết. Rồi biết bao tàu đánh cá của Dân ta bị bắt giữ, đánh chìm, nộp tiền chuộc mà những cứ liệu cứ rành rành ra đó. Máu của chiến sĩ, con dân Việt Nam vì sự xâm lược hai quần đảo HS, TS của TQ đã còn tươi mới, làm sao quên được, phủ nhận được, cho dù TQ có “cả vú lấp miệng em” luôn la lối khắp nơi những điều ngược lại. Nhưng cũng chính với số cứ liệu dồi dào, rõ ràng, chúng ta cần phải hỏi: Nó cần để làm gì?
Phía TQ, cần phải thấy rằng họ sợ số cứ liệu này được đưa ra công khai trên trường Quốc tế. Bằng nhiều chứng cứ giả, thiếu thuyết phục, khi đối đầu, chạm với những tài liệu của chúng ta chắc chắn dễ dàng bị bẻ gãy và TQ sẽ hiện ra là kẻ xâm lược, là côn đồ quốc tế mưu mô độc chiếm biển Đông!
Chính vì vậy nên TQ luôn, chỉ muốn đối thoại song phương, dàn xếp trong tình “anh em 4 tốt, 16 chữ vàng” mà cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói rõ, trực diện là không chấp nhận đánh mất chủ quyền, độc lập bằng thứ hoà bình, hữu nghị viễn vông (cho dù chỉ là nói chưa có hành động gì). Vậy tại sao chúng ta còn chần chừ chưa đưa ra trước công luận Quốc tế vấn đề TQ xâm lược hai quần đảo HS, TS và mưu toan chiếm vùng biển Đông làm sở hữu riêng mình?
Có thể nhận thấy về phía Việt Nam có các vấn đề sau đây:
1/ Qua rất nhiều đau thương mất mát, chậm phát triển từ các cuộc chiến tranh vừa qua, hơn ai hết, Dân tộc Việt Nam hoàn toàn hiểu rõ Hoà bình là điều cần thiết, quan trọng cần phải giữ gìn. Có đôi khi cũng phải chịu đựng, nhẫn nhịn, nhất là khi ở bên cạnh một người láng giềng xấu bụng, luôn mưu mô, lăm le lấn chiếm, phá hoại đất nước ta, cho dù ở thời điểm hữu hảo nhất “môi hở răng lạnh”. Tâm lý ấy dẫn đến trào lưu, quan điểm thà chịu thiệt, bị xâm lấn “tí chút” còn hơn là gây ra chiến tranh, máu chảy đầu rơi! Chúng ta đã nhẫn nhịn, chịu đựng sự ức hiếp nhục nhả bao năm cho đến khi có người lãnh đạo dám nói ra sự không chịu đựng nỗi nữa là cựu TT Nguyễn Tấn Dũng. Và không thể chấp nhận một loại tình hữu nghị giả trá, viển vông để mất dần đất nước, mất sự tự chủ, độc lập dân tộc.
2/ Trong cả một thời gian dài, chúng ta đã bị trói buộc trong quan hệ ý thức hệ Cộng sản, XHCN, Quốc tế vô sản, chủ thuyết Đại đồng v.v… Và v.v… Nó làm chúng ta quên đi, xem nhẹ tính dân tộc, quyền lợi đất nước để chỉ mơ ước một ngày mai “bốn phương vô sản mới là anh em”. Và lúc bừng tỉnh ra mới thấy đó chỉ là chiêu bài thâm độc của nước lớn hòng lệ thuộc, cai trị chỉ huy nước nhỏ trong vòng kiềm tỏa của mình. Tệ hại hơn trong ý thức hệ ấy, các khái niệm về nhân quyền, dân quyền, độc lập, tự do, dân chủ… đều bị coi thường để chỉ cho mục đích thắng lợi của chủ nghĩa với bất cứ giá nào, kể cả cái giá chủ quyền đất nước.
3/ Cùng với cách tư duy ấy và chế độ xã hội rồi tình trạng chiến tranh và ảnh hưởng phe nhóm, hầu hết các tư liệu có được hôm nay về HS, TS là được lưu giữ từ miền Nam, các chuyên gia, học giả, bản đồ học… đều có xuất xứ từ phía miền Nam, có liên quan xa gần với chế độ VNCH! Nói như vậy hoàn toàn không để phân biệt Nam, Bắc mà chính trong những hạn chế (nêu trên) ấy, nhiều học giả, chuyên gia giỏi (miền Nam) cũng khó để tiếp cận và đặt vấn đề chủ quyền biển đảo, biên giới…
Hơn nữa, do địa lý tự nhiên, các quần đảo HS, TS đều nằm vào phía Nam; việc các đạo hùng binh trấn giữ các đảo này thuộc phía Nam nên các sắc phong, lệnh dụ… đều được ban hành, lưu giữ cho các vùng biển gần biên ải đất nước. Chính vì vậy, do nguồn gốc phía Nam nên như thói quen (có lẽ từ lúc thắng trận) người làm tài liệu, các tài liệu ít nhiều có liên quan đến chế độ cũ không được xem trọng và khiến sự tin cậy của chính quyền có phần nghi ngại, ít sử dụng đã hạn chế trong cả thời gian dài về việc đưa các tài liệu này ra công luận để chứng minh cho chủ quyền biển đảo của chúng ta.
Đã đến lúc cần phải được sắp đặt lại, công nhận tài liệu, sự nghiên cứu là khoa học không phải chỉ cảm tính. Trước hết nó mang tính trung thực, sự thật hiển nhiên mà khg thể bóp méo hay vo tròn do những ý đồ tập thể, quyền lợi nhóm hay cá nhân nào! Nhất là khi nó phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Nó cần được công khai công bố, tranh biện, hội thảo và tuyên truyền đến tận từng người Dân để xây dựng, kiên định một lòng về chủ quyền đất nước và hiện trạng (không dấu diếm) những vùng biển đảo đang bị xâm lược. Cần đề ra biện pháp đối phó (từng thời điểm) mà đất nước chúng ta đang gặp phải, tiến hành.
Do vậy tài liệu, cứ liệu chúng ta đang có, đang dày công tập hợp lẽ nào lại chỉ để cho chính chúng ta biết, chúng ta kiên định cho mình? Không! Cần phải đưa ra, trình bày cho thế giới biết. Cần phải sử dụng tài liệu này để theo đuổi việc kiện TQ ra Toà án quốc tế, ra các tổ chức công bằng của thế giới để họ hiểu được ai là kẻ xâm lược, ai đang gây ra sự xáo trộn, xây dựng bồi lấp các đảo, gieo rắc nguy hiểm cho Hoà bình thế giới. Ai là người đang mưu toan chiếm hữu biển Đông làm ao nhà mình để khống chế đường đi, vận chuyển làm trái với luật pháp quốc tế về biển.
Vậy thì vì sao đến nay chúng ta vẫn cứ chần chừ, chưa (hay chậm) xúc tiến việc kiện này cho quốc tế thấy rõ bản chất vụ việc mà ủng hộ chính nghĩa của chúng ta?
Nhiều người vẫn cho rằng “vô Phước đáo tụng đình” hay “chờ được vạ thì má đã sưng” hoặc tệ hơn là cho dù xử thắng thì ai sẽ làm cơ quan thi hành án để buộc TQ trả lại cho ta đất đai, biển đảo! Chính cách nghĩ lười biếng, chịu đựng như trên đã khiến TQ đã và đang càn quấy trên biển, lấn chiếm biên giới, còn to mồm la lối với Quốc tế là Việt Nam bất tín, là chủ quyền lịch sử hàng ngàn năm. Thế giới văn minh, tiến bộ cần và đã có cách ứng xử khác, đó là sự công bằng, tính nhân văn cho mọi dân tộc. Trước hết sự thật phải được công nhận. Và sự thật ấy là sự thật của một đất nước, một dân tộc và vĩnh cửu chứ không phải ngắn hạn cho một chế độ nào. Với sự công bằng, công luận quốc tế sẽ lên tiếng và sự ủng hộ chính nghĩa là bất kỳ cho một dân tộc, đất nước mà không phải vì mạnh hay yếu, vì lớn hay nhỏ!
Vậy tại sao chúng ta còn chần chừ nếu chúng ta là chính nghĩa, chủ quyền đất nước là không thể tranh cãi…! Đến lúc cuộc chiến tranh pháp lý, tuyên truyền cho lẽ phải của chúng ta là cần thiết. Chỉ cầu mong chính quyền biết nghe Dân, biết sử dụng Dân là lực lượng chính trong công cuộc bảo vệ đất nước, đòi lại sự công bằng cho chúng ta sau nhiều năm chịu đựng sự áp bức, dối trá của người láng giềng China.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét