"Một dân tộc tìm cách tránh chiến tranh bằng
cái giá của sự nhục nhã, thì cuối cùng sẽ nhận lấy cả sự nhục nhã và chiến
tranh" (Winston Churchill).
Nhân nhượng Trung Quốc hay chiến
tranh tại Biển Đông? Đó là cách nhìn bàn cờ Biển Đông bằng lăng kính trắng đen
của một số học giả và chính khách phương Tây (và phương Đông). Về cơ bản, họ
cho rằng đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc là “diều hâu”, sẽ dẫn đến chiến
tranh, vì vậy phải nhân nhượng Trung Quốc. Đó là quan điểm nhầm lẫn của một số
học giả như Hugh White (Lowy Institute) hay Lyle Goldstein (Naval War College).
Hệ quả của nhân nhượng
Thực tế bàn cờ Biển Đông vốn phức
tạp với nhiều ẩn số và biến số, cũng như Châu Á là một bức tranh mosaic nhiều
màu sắc đa dạng. Không thể thay đổi được bức tranh đó, nhưng cần thay đổi cách
nhìn về nó, mới có thể tìm được giải pháp hiệu quả. Không nhất thiết phải nhân
nhượng hay chiến tranh với Trung Quốc như trò chơi một mất một còn (zero sum).
Một đường lối cứng rắn không nhất thiết dẫn đến chiến tranh, mà có khi ngược lại.
Trong tám năm cầm quyền, Tổng thống
Obama đã nhân nhượng Trung Quốc, tuy ông và ngoại trưởng Hillary Clinton đề xướng
chủ trương xoay trục sang Châu Á (hay tái cân bằng) và thúc đẩy Hiệp định TPP
làm chỗ dựa để Mỹ và đồng minh kiềm chế Trung Quốc. Đó là một chủ trương đúng,
nhưng thực hiện thiếu quyết liệt, vì nhân nhượng Trung Quốc. Tuần tra biển Đông
(FONOPs) cũng làm chiếu lệ vì “đi qua vô hại” (innocent passage) như “tiếng kèn
ngập ngừng” do Obama “lãnh đạo từ phía sau”. Một chính sách nhân nhượng như vậy
(với lý do để tránh né chiến tranh) là phản tác dụng và có thể gây nguy hiểm
cho khu vực.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ hiểu sự
nhân nhượng đó là dấu hiệu nhu nhược, nên họ càng làm già, thậm chí còn tạo ra
khủng hoảng để hù dọa chiến tranh (brinkmanship). Lãnh đạo Trung Quốc đã nắn
gân Obama tuy có tư tưởng đúng nhưng thiếu quyết liệt nên họ không sợ, thậm chí
coi thường. Vì vậy Trung Quốc đã tranh thủ chiếm bãi cạn Scarborough của Manila
(2012). Trung Quốc biết Hạm đội 7 tuy rất mạnh, có nhiều tàu chiến và máy bay
hiện đại, nhưng Nhà Trắng lại “non gan” (no balls). Lịch sử đã lặp lại từ năm 1974
khi Trung Quốc chiếm Hòang Sa, và năm 1988 khi họ chiếm một phần Trường Sa,
nhưng Mỹ không phản ứng.
Thứ hai, các nước Đông Nam Á cũng
hiểu Mỹ nhân nhượng Trung Quốc là dấu hiệu nhu nhược, có thể bỏ rơi họ vì “nước
Mỹ trước tiên” (America first), nên một số nước đã xoay trục ngả theo Trung Quốc.
Các nước đồng minh của Mỹ (có căn cứ quân sự) như Philippines và Thailand đã
xoay trục trước, bỏ Mỹ theo Tàu. Đó là một nghịch lý, do chính sách của Mỹ xô đẩy
họ chứ thực sự họ không muốn thế. Các nước khác độc lập hơn, có truyền thống chống
Tàu (như Việt Nam và Indonesia) cũng buộc phải ứng xử nước đôi bằng cách “đu
dây”.
Thứ ba, Trung Quốc đã tranh thủ
“cơ hội vàng” này để bành trướng và quân sự hóa Biển Đông, nhằm từng bước biến
nó thành cái ao riêng của họ. Trung Quốc không chỉ muốn kiểm soát Biển Đông, mà
còn độc chiếm luôn nguồn tài nguyên (dầu khí và đánh cá). Vì vậy, họ đã ráo riết
thay đổi thực địa và áp đặt chủ quyền theo “đường lưỡi bò” (đã bị phán quyết của
tòa PCA bác bỏ). Nếu Mỹ tiếp tục nhân nhượng thì đến năm 2030, Biển Đông sẽ trở
thành cái ao của Trung Quốc (Asia-Pacific Rebalance 2025 report, CSIS, January 19,
2016).
Những dấu hiệu mới
Chính quyền Obama (và các chính
quyền Mỹ trước đó) đã “có công” giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách
“Constructive Engagement”, nên họ đã trở thành “quái vật Frankenstein” (theo lời
cựu Tổng thống Richard Nixon). Trung Quốc còn tham vọng muốn thâu tóm Biển Đông
làm bàn đạp để giúp họ thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, với quốc sách “Một vành
đai, Một con đường”, nhằm vượt Mỹ để trở thành siêu cường đứng đầu thế giới. Đến
lúc đó, nếu Mỹ muốn ngăn chặn Trung Quốc thì chắc đã quá muộn (too little too
late).
Một số học giả theo trường phái
realism, nhưng lại thiếu thực tế về khu vực, vì họ chỉ quan tâm đến cân bằng lực
lượng giữa các nước lớn (như megapowers), mà không thực sự quan tâm đến lợi ích
các nước nhỏ trong khu vực (như micropowers). Họ không quan tâm (hoặc vô cảm)
trước một thế giới mới với bản chất quyền lực đã thay đổi, và cấu trúc quyền lực
đã chuyển dịch. Trong khi các megapowers bị suy tàn (decay) và mất dần quyền lực,
thì các micropowers có vai trò ngày càng lớn hơn, không chỉ tại nước Mỹ mà còn
khắp thế giới.
Trong khi hệ thống quyền lực
chính thống (mainstream) bị suy tàn (như Moises Naim lập luận trong cuốn sách
“the End of Power”), thì Trumpism (và Brexitism) là hiện tượng mới bất thường,
đang làm đảo lộn thế giới. An ninh quốc tế ngày càng bất ổn, đặc biệt là tại Biển
Đông, trước nguy cơ Trung Quốc trỗi dậy, bắt nạt các nước láng giềng yếu hơn và
đòi thay đổi trật tự thế giới. Liệu “Trục người lớn” (Axis of Adults) có ngăn
được Trump trở thành “Chump” (như Tom Friedman cảnh báo) có thể làm Trung Quốc
(chứ không phải Mỹ) vĩ đại trở lại (making China great again). Theo Richard
Haass (Council on Foreign Relations president), chính sách đối ngoại của Trump
là tạm bợ (adhocracy), dựa trên ứng phó (improvisations).
Nói cách khác, liệu James Mattis,
HR McMaster, Rex Tillerson… có đủ khôn ngoan và thực tế để không trở thành những
chính khách realist ngộ nhân, lăp lại những sai lầm tai hại, nhân nhượng Trung
Quốc quá đà, như chính phủ Chamberlain của Anh đã nhân nhượng Hitler bằng chính
sách appeasement đầy tai tiếng trong lịch sử. Rốt cuộc, nhân nhượng kiểu
Chamberlain không ngăn được nước Đức Phát xít thôn tính Châu Âu. Gần đây, phát
biểu của James Mattis và Malcom Turnbull tại Shangri-La Dialogue (3/6/2017) là
một dấu hiệu mới tích cưc là Mỹ và đồng minh bắt đầu cứng rắn hơn với Trung Quốc,
không để Trump bị ngộ nhận mắc mưu Tập Cận bình, trao đổi vấn đề Biển Đông với
vấn đề Bắc Triều Tiên.
Điều đáng chú ý là những dấu hiệu
điều chỉnh thái độ của Mỹ và đồng minh (như Nhật, Úc, Ấn) trùng hợp với điều chỉnh
thái độ của Việt Nam đang xích lại gần Mỹ và Nhật, qua hai chuyến đi Mỹ và Nhật
gần đây của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Thái độ của Hà Nội đã cứng rắn
hơn về chủ quyền và thăm dò dầu khí tại Biển Đông, bất chấp đe dọa của Trung Quốc,
muốn ép Hà Nội dừng hoạt động thăm dò dầu khí tại hai dự án nhạy cảm là Cá Voi
Xanh (Blue whale) tại lô 118 (hợp tác với Exxon Mobil của Mỹ) và Cá Rồng Đỏ
(Red Dragon Fish) tại lô 136-3 (hợp tác với Talisman của Úc/nay là Repsol của
Tây Ban Nha).
Thay lời kết
Thái độ cứng rắn hơn của Hà Nội
phản ánh kết quả của những hoạt động ngoại giao gần đây giúp tăng cường cam kết
và hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt và Nhật-Việt, không chỉ liên quan đến chủ trương
khai thác tài nguyên dầu khí tại Biển Đông (oil politics) mà còn liên quan đến
trò chơi cân bằng quyền lực (power politics) trong tam giác Mỹ-Trung-Nhật. Một
liên minh khu vực vì an ninh tập thể (a regional coalition for collective
security) dựa trên nền tảng TPP, là một sự răn đe hiệu quả để duy trì hòa bình.
Lời Mở đầu (Preamble) của Hiến chương UNESCO đã khẳng định, “Vì chiến tranh bắt
đầu từ trong tâm thức con người, nên phải xây dựng phòng tuyến hòa bình ngay
trong tâm thức con người” (Since wars begin in the minds of men, it is in the minds
of men that the defenses of peace must be constructed).
Nếu Việt Nam trở thành đối tác
chiến lược của Mỹ và Nhật, thì quy chế đặc biệt về Cam Ranh giành cho đồng minh
là tất yếu, làm bàn cờ Biển Đông thay đổi. Thời gian không còn nhiều để tiếp tục
trò chơi bập bênh và đu dây, trong khi Biển Đông đang trở thành cái ao của
Trung Quốc. Khi Alexander Vuving viết “Ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu
Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.” thì chắc chắn anh ấy
nghĩ tới Trung Quốc. Chống lại nguy cơ đó, Mỹ không nhất thiết sa vào bẫy
Thucydides như Graham Allison cảnh báo, mà ngược lại nhân nhượng Trung Quốc quá
đà sẽ làm tăng thêm nguy cơ chiến tranh. Trong khi người Trung Quốc đánh ván cờ
Biển Đông theo lối cờ vây, vận dụng binh pháp Tôn Tử (Sun Tzu) thì người Mỹ và
phương Tây không nên chỉ chấp vào học thuyết Clausewitz.
*
Tham khảo
Ely Ratner, “The false choice of
war or accommodation in the South China Sea”, Lowy Institute, 30 June 2017;
Hugh White, “South China Sea US
policy must begin at home”, Lowy Institute, 26 June 2017
Ely Ratner, “Course Correction:
How to Stop China’s Maritime Advance”, Foreign Affairs, July/August 2017)
Tom Friedman, “Trump Is China’s
Chump”, New York Times, June 28, 2017
Doug Bandow, “Who Is Making U.S.
Foreign Policy?”, National Interest, June 26, 2017
Lyle Goldstein, “The Main Problem
with America’s Abundant South China Sea Hawks”, National Interest, October 28,
2015.
Alexander Vuving, “Think again:
Myths and Myopia about the South China Sea”, National Interest, October 16,
2015;
Lyle Goldstein, “The South China
Sea Showdown: 5 Dangerous Myths, National Interest, September 29, 2015;
Alexander Vuving, “Trung Quốc sẽ
làm gì ở Biển Đông?”, Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016.
Nguyễn Quang Dy, “Trung Quốc CÓ
THỂ làm gì ở Biển Đông? Viet-studies, 26/2/2016
NQD. 1/7/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét