Robert Haddick, Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis (MD): Naval Institute Press.
.
Cuốn “Lửa ở trên nước” (10 chương, 272 trang) là một nghiên cứu quan trọng về tác động của quá trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc đối với Mỹ và đồng minh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tác giả Robert Haddick đã sử dụng
30 năm kinh nghiệm nghiên cứu về xu hướng an ninh ở châu Á để phân tích
sự trỗi dậy về quân sự của Trung Quốc và chiến lược ứng phó của Mỹ và
chỉ ra rằng chiến lược của Mỹ hiện không hiệu quả và có thể là một trong
những nguyên nhân tiềm tàng gây xung đột tại khu vực. Tác giả cho rằng các ứng phó của Mỹ đối với chiến lược hiện đại hóa của Trung Quốc tạo điều
kiện cho Trung Quốc ngày càng lấn tới, bắt nạt các nước nhỏ trong các
yêu sách chủ quyền. Biện pháp tác chiến của Mỹ (dù được cải tiến) đã
lỗi thời và không bắt kịp với tốc độ hiện đại hóa của Trung Quốc. Tác
giả khuyến nghị một chiến lược quân sự mới giúp nâng cao năng lực tác
chiến của Mỹ để đối phó hiệu quả với năng lực quốc phòng của Trung Quốc
và duy trì ổn định khu vực.
Nguồn gốc của những thách thức ở khu vực
Tác giả cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc trong hơn ba thập kỷ
qua, tương tự sự trỗi dậy của Đức trước năm 1914, nếu không được xử lý
phù hợp sẽ dẫn đến sự va chạm với vai trò siêu cường của Mỹ. Trung Quốc
vẫn đang hưởng lợi từ trật tự quốc tế hiện nay, nhưng sẽ mạnh mẽ theo
đuổi các yêu sách chủ quyền lãnh thổ nhằm đảm bảo an ninh quốc gia và
các tuyến hàng hải, giải tỏa sức ép nội bộ từ chủ nghĩa dân tộc, và mong
có vị trí cường quốc xứng đáng. Tác giả (như John Mearsheimer – người
đề xuất chủ thuyết hiện thực tấn công) cho rằng sự trỗi dậy của Trung
Quốc và sự cương quyết của nước này trên biển Hoa Đông và biển Đông đang
đẩy các nước láng giềng vào “miệng hố chiến tranh.”
Mỹ có nhiều lợi ích quan trọng tại khu vực, như: duy trì hệ thống
kinh tế quốc tế mở; bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên các luật lệ; duy trì
hòa bình và an ninh cho Mỹ và các đồng minh. Tác giả phân tích 4 kịch
bản đối với châu Á-Thái Bình Dương: (i) Mỹ tiếp tục duy trì hiện diện và
cam kết với khu vực; (ii) Mỹ giảm cam kết và các cường quốc khu vực nổi
lên tranh giành ảnh hưởng; (iii) Các nước châu Á thành lập một cộng
đồng gắn kết như Liên minh châu Âu; và (iv) Trung Quốc thiết lập một
trật tự khu vực mới. Trên cơ sở các điểm mạnh và yếu của 4 kịch bản này,
tác giả khẳng định Mỹ cần thực hiện kịch bản duy trì hiện diện để bảo
vệ sự thịnh vượng và ổn định của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đồng
thời, Mỹ cần đảm bảo các luật chơi trong trật tự hiện tại có lợi cho
Trung Quốc để thuyết phục Trung Quốc chấp nhận trật tự hiện tại. Lựa
chọn chiến lược này đối với Mỹ là ít mạo hiểm và tốn kém nhất.
Tuy nhiên, theo tác giả, Mỹ đang đối mặt với những hạn chế nghiêm
trọng. Năm 1943, dựa theo học thuyết vành đai an ninh, Mỹ xác định 66 vị
trí chiến lược mà hải quân và không quân Mỹ cần bảo vệ để ngăn chặn các
cuộc tấn công từ phía châu Á-Thái Bình Dương. Về sau, Mỹ lập các căn cứ
quân sự trong khu vực đều dựa trên hệ thống 66 vị trí này. Sau Chiến
tranh lạnh, Mỹ điều chỉnh, rút nhiều căn cứ và duy trì chủ yếu ở Đông
Bắc Á. Tuy nhiên, các thách thức an ninh hiện không chỉ có ở Đông Bắc Á
mà cả ở Đông Nam Á, nơi Mỹ gần như không hiện diện quân sự. Ngoài ra,
việc đóng quân quá lâu ở châu Âu và Đông Bắc Á khiến Mỹ tập trung vào
các lực lượng (bộ binh, hải quân, không quân) tác chiến tầm ngắn. Các kế
hoạch quân sự và các tướng lĩnh có quân công đều bị ảnh hưởng bởi chiến
thuật đánh trong khoảng cách gần. Khả năng tấn công tầm xa của Mỹ như
máy bay tầm xa, tên lửa đạn đạo (giảm đáng kể do Hiệp ước Phá hủy Tên
lửa Tầm trung và Tầm ngắn ký với Liên Xô năm 1987) khá hạn chế. Trong
khi đó, Trung Quốc đã nghiên cứu kỹ các điểm yếu trong bố trí quân sự
của Mỹ và liên tục hiện đại hóa quân đội, đặc biệt về tên lửa. Dự đoán,
sang thập kỷ tới, Trung Quốc sẽ có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho
lực lượng Mỹ, kể cả những lực lượng cách Trung Quốc 2,000 km.
Tính toán sai lầm của Mỹ
Trung Quốc đang tiến hành hai chiến lược song song. Về chính trị,
Trung Quốc áp dụng chiến lược “cắt lát xúc xích” – salami slicing (có
nghĩa đánh lấn từng bước). Trung Quốc từng bước chia rẽ ASEAN trong vấn
đề Biển Đông, chia rẽ các nước có yêu sách chủ quyền. Trung Quốc cũng
dần lấn từng bước trên thực địa ở biển Đông và biển Hoa Đông, không mạnh
quá dẫn đến phản ứng của các nước mà chỉ vừa đủ để dần hợp thức hóa sự
hiện diện thực tế tại các vị trí quan trọng nhất. Về quân sự, Trung Quốc
đang thực hiện một cuộc cách mạng tên lửa và công nghệ cảm biến nhằm
“chống tiếp cận” của Mỹ vào gần lãnh thổ Trung Quốc. Tên lửa của Trung
Quốc có thể đặt trên các bệ phóng di động và tấn công tất cả tàu chiến,
tàu ngầm, căn cứ không quân cách biên giới Trung Quốc 2,000 km. Trung
Quốc cũng đang hiện đại hóa không quân (máy bay tiêm kích, hệ thống
radar, máy bay không người lái, hệ thống do thám và vệ tinh) để phát
hiện và ngăn chặn tiếp cận của hải quân Mỹ. Chiến lược này giúp Trung
Quốc cai trị biển từ đất liền, giành ưu thế nổi trội so với cường quốc
viễn chinh Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc có một số điểm yếu: gần như không
có đồng minh (trừ Bắc Triều Tiên và chừng mực nào đó Lào và Campuchia);
vẫn bị bao vây trong vành đai đảo thứ nhất (từ Nhật kéo xuống
Philippines và Malaysia); ít kinh nghiệm tác chiến thực tế; và chính trị
nội bộ bất ổn. Những thách thức này, đặc biệt về việc thiếu đồng minh
và bất ổn nội bộ, sẽ tiếp tục gây khó khăn cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, các ứng phó hiện tại của Mỹ đối với thách thức quân sự từ
Trung Quốc là không toàn diện, không cạnh tranh và thiếu thực tế. Thứ nhất,
JOAC (Joint Operational Access Concept), kế hoạch phối hợp tác chiến ở
cấp cao của tất cả các lực lượng nhằm tiến công sát Trung Quốc, đã mô tả
trung thực những thách thức của quân đội Mỹ, nhưng kiến nghị những giải
pháp không phù hợp. Một số đề xuất của JOAC (như: gây bất ngờ tối đa,
làm gián đoạn hệ thống do thám và tuần tra, khai thác lợi thế để giảm
năng lực chống tiếp cận của địch thủ…) không phải là các chiến thuật
quân sự bài bản. Một số đề xuất khác (như kiểm soát không phận từ khoảng
cách chiến lược, tấn công năng lực phòng không và an ninh mạng…) vượt
ngoài khả năng của Mỹ và đồng minh. Ngoài ra, hầu hết lính Mỹ khó loại
bỏ những giả định ăn sâu trong văn hóa chiến đấu cũ nên việc triển khai
các đề xuất này không hiệu quả. Thứ hai
là Kế hoạch Chiến tranh Không-Biển (Air-Sea Battle), bảo vệ các tàu
chiến và căn cứ của Mỹ và đồng minh khỏi tên lửa của đối phương, có một
số nội dung hữu ích nhưng không có tính cạnh tranh trước chiến lược
chống tiếp cận của Trung Quốc. Mỹ sẽ tiêu tốn nguồn lực không phải để
đánh vào các điểm yếu mà để phòng thủ các điểm mạnh của Trung Quốc (khả
năng tấn công linh hoạt từ các bệ phóng di động và năng lực sử dụng mạng
để hạn chế các lực lượng của Mỹ phối hợp tác chiến). Thứ ba, chiến lược phong tỏa từ xa, mà một số chuyên gia đề
xuất, cũng không hiệu quả do chiến lược này sẽ đe dọa đến nền kinh tế
của đồng minh Mỹ, gây ra bất ổn chính trị và Mỹ cũng không đủ khả năng
phong tỏa hiệu quả các tuyến hàng hải đến Trung Quốc.
Đề xuất chiến lược mới cho nước Mỹ ở khu vực
Theo tác giả, Mỹ cần một chiến lược hiệu quả dựa trên các tính toán
chính xác trên cả bốn bước: đánh giá, thiết kế, thi hành và dự báo. Về đánh giá,
Mỹ cần nghiên cứu toàn diện sức mạnh của mình, lợi ích hiện tại và lâu
dài, điểm mạnh và yếu của đối thủ. Theo tác giả, chiến lược của Mỹ cần
dựa trên 8 đánh giá cơ bản: (1) Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường năng
lực không quân, hải quân, tên lửa và vũ trụ để kiểm soát hoàn toàn các
tuyến hàng hải, trước hết ở Đông Á; (2) Cùng với phát triển xã hội,
Trung Quốc gặp thêm nhiều thách thức nội bộ; (3) Láng giềng của Trung
Quốc cũng sẽ đẩy mạnh cân bằng bên trong và bên ngoài trước chủ nghĩa
dân tộc và hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc; (4) Cạnh tranh an ninh ở
châu Á – Thái Bình Dương sẽ không có hồi kết; (5) Trung Quốc sẽ tiếp
tục có lợi thế từ lục địa, chi phí sản xuất vũ khí thấp; và ngày càng
thu hẹp khoảng cách quân sự với Mỹ; (6) Cho dù mâu thuẫn nội bộ, lãnh
đạo trung ương của Trung Quốc sẽ nắm toàn quyền kiểm soát các lực lượng
quân sự và bán quân sự khi có khủng hoảng; (7) Giới lãnh đạo Trung Quốc
sẽ cân nhắc kỹ trước khi hành động; (8) Trung Quốc cũng lo sợ những điểm
yếu của mình (sợ bất ổn nội trị, sợ bị phong tỏa, sợ không kiểm soát
được vấn đề Đài loan, sợ bị tấn công trên bộ từ láng giềng hoặc có lãnh
thổ ly khai, sợ bị ném bom tầm xa, sợ bị tấn công vào các vị trí chiến
lược, và sợ tình hình leo thang hoặc mất kiểm soát).
Về thiết kế,
Mỹ cần có một cách tiếp cận mới với các đối tác khu vực để thể hiện sự
kiên quyết, nhưng cũng tinh tế hơn. Tác giả đề xuất 7 biện pháp cụ thể
là:
(i) Các đối tác của Mỹ cần đẩy mạnh đấu tranh pháp lý chống các hành
động lấn chiếm lãnh thổ của Trung Quốc. Điều này sẽ làm các hoạt động
lấn tới trên thực tế của Trung Quốc trở nên vô giá trị;
(ii) Các đối tác của Mỹ ở biển Đông và Hoa Đông cần có đủ sức mạnh
đối kháng với sự hiện diện quân sự của Trung Quốc. Mỹ cần kéo Nhật, Ấn
Độ, Úc, cùng hỗ trợ các nước nhỏ có đủ sức mạnh quân sự và dân sự (tàu
cá) để đối kháng với Trung Quốc;
(iii) Các đối tác của Mỹ cần tăng cường thông tin tình hình cho cộng đồng toàn cầu vì họ có ưu thế pháp lý hơn Trung Quốc;
(iv) Mỹ cần mở rộng và củng cố mạng lưới đối tác trên khắp châu Á.
Mỹ cần mở rộng quan hệ với các nước trước ít liên quan như Myanmar, các
nước trên dãy Himalaya; tăng cường quan hệ với một số đối tác quan trọng
như Ấn Độ và Việt Nam (những nước có chung lợi ích với Mỹ chống lại sự
lấn tới của Trung Quốc); và mở rộng quan hệ phi chính phủ.
(v) Mỹ cần đi đầu trong việc chia sẻ thông tin và nhận thức về hàng
hải để một bức tranh kịp thời và chính xác về các hoạt động của Trung
Quốc;
(vi) Mỹ cần khuyến khích các đối tác xây dựng các năng lực chống
tiếp cận riêng của mình để ngăn ngừa các lực lượng Trung Quốc xâm nhập;
và
(vii) Mỹ và các đối tác cần chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến phi
thông thường vì Trung Quốc đã phát triển học thuyết “Ba cuộc chiến”
(truyền thông, tâm lý, và kỹ thuật pháp lý).
Về thực hiện,
Mỹ cần giải quyết một số tồn tại trong quan hệ với đối tác như tình
trạng lưỡng nan do áp lực từ Trung Quốc, vấn đề ngồi không hưởng lợi
(free-riding) hay các đối tác dè dặt trong hợp tác quân sự với Mỹ. Mỹ
cần duy trì một hình ảnh khiêm tốn, thúc đẩy các nước khác chia sẻ vai
trò lãnh đạo với Mỹ; mở rộng các cơ chế đa phương thay vì tập trận và
trao đổi song phương để xây dựng lòng tin và trao đổi quan điểm; đề ra
những mục tiêu quan trọng nhất khi phát triển hoặc triển khai các hoạt
động luyện tập quân sự với đối tác; và cần hợp tác với các đối tác củng
cố sự phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó, Mỹ phải đi đầu mở rộng vai trò với
đối tác, chia sẻ chuyên môn về hệ thống liên lạc, cảm biến, thậm chí hệ
thống chống tên lửa.
Về dự báo,
tác giả cho rằng, trong tương lai, sự thống trị của không lực tầm xa sẽ
là nhân tố chủ chốt cho thành công quân sự ở Đông Á. Do đó Mỹ cần tái
thiết kế lực lượng quân sự và cần có hệ thống không lực đa tầm ngắm để
đối phó với quá trình Trung Quốc hiện đại hóa quân sự. Cụ thể, Mỹ cần (i) nhiều máy bay chiến thuật tầm xa (không chỉ ném bom) có độ bền và trọng tải tốt; (ii) rút ngắn khoảng cách tên lửa với Trung Quốc,
đặc biệt qua JASSM-ER - tên lửa hành trình đối hạm tầm xa có khả năng
cạnh tranh với tên lửa đối hạm của Trung Quốc, và lôi kéo các nước ép
Trung Quốc ký Hiệp ước Phá hủy Tên lửa Tầm ngắn và Tầm trung (INF
Treaty); (iii) đẩy mạnh sản xuất tên lửa tự hoạt để giành lại quyền kiểm soát biển (điều
này giúp kiềm chế tên lửa và không lực đối hạm được phân tán, di chuyển
hoặc giấu trong các cơ sở dưới lòng đất của Trung Quốc) và chương trình
LOCAAS, chương trình về hệ thống tấn công tự hoạt có chi phí thấp; (iv)
bảo vệ hệ thống do thám, liên lạc và cần bộ quy tắc ứng xử
chống lại các cuộc tấn công trên không gian, làm tăng chi phí chính trị
đối với các quốc gia vi phạm luật. Tuy nhiên hệ thống này cần kết hợp
máy bay ném bom tấn công tàng hình từ xa để thu thập hình ảnh và duy trì
liên lạc, (v) tính đến các yếu tố khác như con người, tổ chức, huấn luyện, các học thuyết để đối phó lại các thách thức mới.
Thay lời kết
Tựu chung lại, theo quan điểm của tác giả, sự trỗi dậy của Trung
Quốc và chương trình hiện đại hóa sức mạnh quân sự, hải quân, không quân
của nước này dường như đang đặt châu Á vào nguy cơ chiến tranh, rơi vào
bẫy lịch sử năm 1914 gắn liền với sự nổi lên của nước Đức. Trong khi
đó, Mỹ không có chiến lược hiệu quả để đối phó với những nguy cơ trên
khiến uy tín của Mỹ suy giảm, các nguyên tắc về tự do hàng hải, quyền
đối với thực tiễn toàn cầu gặp nguy hiểm. Trước bối cảnh đó, Mỹ cần một
chiến lược mới để ngăn chặn xung đột và duy trì trật tự quốc tế có lợi
cho tất cả. Cuốn sách này kiến nghị một chiến lược giúp Mỹ duy trì một
cuộc cạnh tranh hòa bình tại châu Á. Chiến lược mới sẽ tốn kém và không
dễ dàng nhưng nó sẽ giúp Mỹ và các đối tác châu Á tránh được một thảm
họa chiến tranh và định hình một tương lai tốt đẹp hơn cho cả Mỹ và các
nước trong khu vực.
Nhìn tổng thể, cuốn “Lửa trên nước” là một
nghiên cứu quan trọng nhằm tìm lời giải cho tranh luận lâu nay giữa các
học giả rằng Mỹ nên có cách tiếp cận nào để ứng phó thích hợp với sự
trỗi dậy về quân sự của Trung Quốc ở châu Á-Thái Bình Dương. Tác giả có
những phân tích sắc sảo về cả khía cạnh quân sự và ngoại giao, phản ánh
kịp thời các thách thức mang tính chiến lược đang thay đổi trật tự an
ninh hiện tại ở khu vực. Tác giả cảnh tỉnh rằng nếu Mỹ không có những
thay đổi chiến lược, rất có thể Mỹ và Trung Quốc sẽ có va chạm ở châu
Á-Thái Bình Dương. Cuốn sách đưa ra những gợi ý về chiến lược cho Mỹ
trong những năm tới, đồng thời đề xuất vai trò của các đồng minh và đối
tác ở khu vực cũng như đưa ra các giải pháp làm thế nào để Mỹ có thể đốc
thúc và giám sát các đồng minh và đối tác này. Bên cạnh đó, cuốn sách
cũng đánh giá chi tiết về tình hình hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc
gần đây và xu hướng trong tương lai. Các đánh giá của cuốn sách về
chiến lược phòng thủ chung, các chương trình phát triển vũ khí, bố trí
lực lượng cũng như sự thay đổi về tương quan lực lượng quân đội giữa các
nước đang có ưu thế và các nước trong khu vực rất logic và có chiều
sâu.
Tuy nhiên cuốn sách vẫn còn một vài thiếu sót. Cuốn sách sử dụng góc nhìn của thuyết hiện thực nên cho rằng xung đột
Mỹ-Trung là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy không
phải lúc nào cũng có xung đột giữa cường quốc mới mạnh lên và cường quốc
đang suy yếu. Nguy cơ chiến tranh hạt nhân hủy diệt tất cả khiến các
cường quốc có thể rơi vào thế lưỡng nan về an ninh, chạy đua vũ trang
nhưng không dẫn đến chiến tranh (như Liên Xô và Mỹ trước đây). Bên cạnh
đó, nghiên cứu này sẽ có tính thuyết phục cao hơn nếu sử dụng thông tin
từ cả Mỹ và Trung Quốc, đặc biệt các thông tin nội bộ, thay vì thông tin
từ báo chí, báo cáo của các viện nghiên cứu hay là phát biểu của các
chính trị gia.
Cuốn
sách được viết bằng tâm huyết của một cựu sỹ quan quân đội Mỹ, một nhà
nghiên cứu quân sự lâu năm nên có những phân tích sâu sắc về các khía
cạnh quân sự và chứa đựng nhiều thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định
chính sách. Mặc dù đây là một cuốn sách quân sự, nhưng không sử dụng
thuật ngữ khó hiểu. Trái lại, cuốn sách được trình bày rõ
ràng, mạch lạc và dễ hiểu; thích hợp với cả những người làm công tác
nghiên cứu và những người quan tâm đến tình hình chính trị-quân sự ở
châu Á – Thái Bình Dương.
(Nghiên Cứu Biển Đông)
(Nghiên Cứu Biển Đông)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét