“FBI luôn liêm chính. FBI luôn dũng mãnh. Và FBI đang và sẽ luôn độc lập!”
Câu nói trên chính là tuyên bố của cựu Giám đốc Cục Điều tra Liên bang Mỹ
(FBI) James Comey trong buổi điều trần ngày 8/6/2017 tại Thượng viện
(Senate), về việc ông bị Tổng thống Donald Trump sa thải khi đang điều
tra về những cáo buộc là Nga đã can dự vào cuộc bầu cử Mỹ năm 2016. Nhưng liệu cơ quan FBI có thật sự độc lập như vậy trong suốt 109 năm lịch sử của nó hay không? Câu trả lời không hoàn toàn là có hay không.
Mặc dù nằm trong Bộ Tư pháp, cơ quan này có quyền lực tách biệt đối với cả Bộ Tư pháp lẫn tổng thống Hoa Kỳ. Nếu cần, nó có thể điều tra cả tổng thống. Chính vì có quyền lực riêng, nên đã từng có những thời điểm, người đứng đầu FBI có thể hết mình ủng hộ hoặc thẳng thừng “ngáng chân” một vị tổng thống một cách khá dễ dàng.
Ngày nay, vai trò và quyền lực của giám
đốc FBI đã có nhiều giới hạn hơn. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa
với việc một vị tổng thống có thể tùy nghi sa thải người giữ chức vụ này
khi có bất đồng về quan điểm trong một vụ việc. Cuộc đối đầu giữa đương
kim Tổng thống Trump và ông Comey là một ví dụ cho điều đó.
Tổng thống Trump và cựu Giám đốc FBI bị ông sa thải, James Comey. Ảnh: TIME.
Trước hết, toàn bộ nhân viên FBI chỉ tuyên thệ làm tốt nhiệm vụ “bảo vệ nhân dân và Hiến pháp Hoa Kỳ”, chứ không phải là theo sự chỉ đạo của bất kỳ ban bệ nào, kể cả khi đó là ông chủ nhà Trắng. Có thể hiểu quyền lực độc lập của FBI đồng nghĩa với việc họ có quyền tự ý tiến hành mở hồ sơ điều tra, cũng như tự ra quyết định kết thúc một vụ án.
Trước hết, toàn bộ nhân viên FBI chỉ tuyên thệ làm tốt nhiệm vụ “bảo vệ nhân dân và Hiến pháp Hoa Kỳ”, chứ không phải là theo sự chỉ đạo của bất kỳ ban bệ nào, kể cả khi đó là ông chủ nhà Trắng. Có thể hiểu quyền lực độc lập của FBI đồng nghĩa với việc họ có quyền tự ý tiến hành mở hồ sơ điều tra, cũng như tự ra quyết định kết thúc một vụ án.
Theo cựu nhân viên FBI Raymond Batvinis,
hiện đang là giáo sư tại Đại học George Washington, thì “lần gần nhất
mà chúng ta nghe đến việc một ông tổng thống muốn cản trở một hồ sơ điều
tra của Bộ Tư pháp và FBI, thì chính ông ấy đã mất chức”. Ông Batvinis
muốn nhắc đến vụ bê bối Watergate dưới thời Richard Nixon, cũng như nhấn mạnh tính độc lập của các cơ quan này.
FBI được lập ra với mục đích trở thành một cơ quan độc lập tương tự như Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp Mỹ ra đời trước FBI 38 năm
(1870), trong thời kỳ Tái thiết (Reconstructive Period) sau khi cuộc Nội
chiến hai miền Nam – Bắc kết thúc.
Bộ Tư pháp đã được lập ra với mục đích trở thành một cơ quan tư pháp độc lập,
không thể bị bất kỳ ai cản trở – kể cả tổng thống Hoa Kỳ, với đủ các
quyền hạn để có thể thực thi các quyền hiến định của người Mỹ gốc Phi và
chống lại thế lực của nhóm phân biệt chủng tộc Ku Klux Klan đang nổi
lên khi đó. Nó có thẩm quyền khởi tố các vụ án của liên bang.
Tính độc lập của cơ quan tư pháp hàng
đầu của Mỹ được thể hiện rất rõ trong năm 2017 này. Trước hết, quyền Bộ
trưởng Tư pháp Sally Yates đã từ chối áp dụng sắc lệnh cấm di trú do Tổng thống Trump ban hành vào tháng 1/2017 sau khi xác định là nó vi hiến.
Tương tự như nhân viên FBI, khi nhậm
chức, toàn bộ nhân viên của Bộ Tư pháp chỉ tuyên thệ trung thành với
Hiến pháp, chứ không phải là trung thành với chính phủ hay tổng
thống. Do đó, bà Yates chấp nhận bị sa thải chứ không làm cái điều mà bà
cho là đi ngược lại Hiến pháp Hoa Kỳ.
Một ví dụ khác về tính độc lập của Bộ Tư pháp là việc Bộ trưởng Jeff Sessions vào tháng 3/2017 phải xin tự rút lui (recusal)
khỏi cuộc điều tra đặc biệt liên quan đến Tổng thống Trump và việc Nga
có thao túng cuộc bầu cử Mỹ năm 2016 hay không. Lý do vì ông Sessions là
một trong những người cùng tham gia vận động trong chiến dịch tranh cử
của Trump. Cũng vì đã làm điều này mà hiện nay ông Trump và ông Sessions
đã không còn “hòa thuận” như trước nữa.
Trở lại câu chuyện về FBI. Đây là một
đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đến lượt mình, nó độc
lập với cả Bộ Tư pháp lẫn tổng thống trong toàn bộ quy trình hoạt động.
Tương tự như Bộ Tư pháp, mục đích thành
lập ra FBI là để đưa cho cơ quan này một số quyền hạn độc lập. Từ đó,
FBI có thể giúp Bộ Tư pháp và chính phủ Hoa Kỳ tiến hành điều tra, tìm
kiếm chứng cớ buộc tội trong những vụ án thuộc thẩm quyền liên bang.
Cũng như tổng thống không thể điều khiển
Bộ Tư pháp theo ý riêng của mình, thì chính Bộ Tư pháp và tổng thống
cũng không thể xen vào công việc của FBI và càng không chỉ đạo họ phải
tiến hành điều tra một nhân vật hoặc một tổ chức nào. Tuy nhiên, họ có
thể đề nghị FBI xem xét về một vấn đề pháp lý nào đó đang rất c
ần quan tâm, ví dụ như tệ nạn buôn người hay lạm dụng trẻ em.
ần quan tâm, ví dụ như tệ nạn buôn người hay lạm dụng trẻ em.
Lý do là vì mô hình nhà nước của Mỹ luôn đặt nặng vấn đề kiểm soát và cân bằng quyền lực (checks and balances).
Nếu thành lập ra một cơ quan điều tra và đặt nó dưới quyền điều hành
của tổng thống thì điều đó có nghĩa là một hệ thống cảnh sát quốc gia đã
được thành lập, và người nắm hệ thống cảnh sát đó cũng chính là tổng tư
lệnh quân đội. Nguy cơ lạm quyền và độc tài là có thể thấy trước
mắt. Cho đến ngày nay, Hoa Kỳ vẫn không có một cơ quan cảnh sát quốc gia (national police force).
Một ví dụ cho việc giới hạn quyền lực của các nhánh trong chính phủ với nhau là lời đe dọa
“bỏ tù bà Hillary Clinton” của ông Trump trong quá trình vận động tranh
cử (liên quan đến việc bà Clinton đã sử dụng một hệ thống e-mail cá
nhân trong thời gian làm Ngoại trưởng). Đến nay, ông Trump không hề đưa
ra bất kỳ lời đề nghị nào đến Bộ Tư pháp hay FBI để điều tra và truy tố
bà Clinton. Đơn giản là vì ông không có quyền ra lệnh cho họ điều tra bà
ấy.
Hơn một trăm năm trước, Hoa Kỳ bắt đầu
một kỷ nguyên mới về phát triển kinh tế và kỹ thuật hóa đất nước. Mối lo
ngại hàng đầu của chính phủ lúc đó là làm sao khống chế được các công
ty đại tư bản và mối hiểm họa về độc quyền kinh doanh và phá giá
(monopoly). Do đó, FBI đã được thành lập với mục đích trở thành cơ quan
điều tra của chính phủ liên bang trong những vụ án kinh tế xuyên tiểu
bang.
Dần dần, các vụ việc nằm dưới quyền điều
tra và truy tố của Bộ Tư pháp và FBI được mở rộng đến nhiều lĩnh vực
khác, chứ không chỉ còn duy nhất là án kinh tế. Từ đó, quyền lực và
trách nhiệm của cả hai cơ quan này ngày càng rộng hơn và độc lập hơn.
Khi Thế chiến thứ Nhất bùng nổ, quyền
hạn điều tra của FBI mở rộng đến các vấn đề liên quan đến an ninh nội
địa (domestic security). Đó là giai đoạn mà nước Mỹ chìm ngập trong các
mối lo sợ đối với người di dân mới, đặc biệt là từ Ý và Đức. Điều này đã
dẫn đến việc ra đời của hàng loạt đạo luật về phản quốc, chống gián
điệp, quân dịch, và các vấn đề về giới hạn di trú. FBI đã có toàn quyền
điều tra và bắt giữ người nhằm giúp thực thi các đạo luật nói trên.
Quyền lực và sự độc lập của FBI lại càng mạnh hơn.
Vào đầu thập niên 1920, quyền lực của người đứng đầu FBI chuyển sang hướng khá tiêu cực khi William J. Burns trở thành giám đốc.
Giám đốc Burns và Bộ trưởng Tư pháp Harry Daugherty đã trở thành hai cái tên chính trong vụ bê bối Teapot Dome
khi họ làm giả chứng cứ để gán tội tham ô cho Thượng nghi sĩ Burton K.
Wheeler. Trong khi đó, ông Wheeler đang đứng đầu một vụ điều tra của
Quốc hội liên quan đến việc Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Albert Fall đã nhận “lại
quả” của các công ty dầu khí và cho phép khai thác trái phép trong khu
vực dự trữ của quân đội tại Teapot Dome, tiểu bang Wyoming. Khi vụ việc
đổ bể, Bộ trưởng Dougherty bị sa thải, còn Burns thì bị buộc từ chức sau
đó vào năm 1924.
Mặc dù vậy, uy tín của FBI không hề suy
giảm sau vụ việc Teapot Dome. Ngược lại, sau khi Burns từ chức, thời kỳ
“độc lập” nhất của cơ quan này mới bắt đầu và đã kéo dài gần năm thập kỷ
dưới sự lãnh đạo của “huyền thoại FBI”: J. Edgar Hoover.
Hoover là người đã dẫn dắt FBI trong
vòng 48 năm liên tục, và ông cũng là người giám đốc gây nhiều tranh cãi
nhất trong lịch sử 109 năm của cơ quan này.
1924-1972: Thời đại Hoover đã khiến FBI thật sự lớn mạnh và độc lập
Một mặt, quyền hạn và sự độc lập của cơ
quan FBI dưới sự lãnh đạo của Hoover là vô tiền khoáng hậu. Nó lớn mạnh
đến mức mà các vị tổng thống khác nhau trong thời gian 48 năm nắm quyền
của Hoover – dù có bất mãn về biểu hiện của Hoover đến mấy đi nữa (ví dụ
như Harry Truman hay John F. Kennedy) – cũng không dám đưa ra quyết
định sa thải vì lo ngại sẽ bị phản tác dụng, và sẽ bị “mất điểm” trong
mắt công chúng.
Mặt khác, dù thích hay không, thì đa số
sử gia Hoa Kỳ phải công nhận là danh tiếng “độc lập” của cơ quan FBI
ngày nay, phần lớn đều đến từ giai đoạn “bảo hộ” của Hoover.
Trong thời đại Hoover, FBI từ một cục
nhà nước liên bang với quy mô nhỏ đã vươn mình trở thành một cơ quan
điều tra lớn mạnh, chuyên nghiệp, cũng như có sức ảnh hưởng lớn nhất Hoa
Kỳ. Ngoài ra, FBI còn trở thành một phần của lực lượng bảo vệ an ninh
quốc gia (national security body). FBI có được quyền bắt giam người
(arrest powers), cũng như được nể phục qua việc biết sử dụng những
phương pháp khoa học hiện đại, tối tân nhất để tiến hành điều tra. Nổi
bật nhất là những vụ điều tra, bắt giam, và truy tố các bố già băng đảng
khét tiếng Hoa Kỳ trong thập niên 1930.
Sức ảnh hưởng của Hoover quá lớn, và FBI
dưới sự quản lý của ông ta đã trở thành một cơ quan vừa quyền lực, vừa
độc lập. Thế nên, nó đã dẫn đến tình trạng lạm quyền từ phía Hoover. Tuy
rằng ông ấy và FBI không hề bị một tổng thống hay một đảng phái chính
trị nào chi phối, nhưng chính Hoover thì lại cho mình cái quyền sử dụng
cơ quan FBI để “giúp đỡ” những ai hoặc những chính sách mà ông ta thích,
và ngược lại tìm cách cản trở, gây khó dễ đến những nhân tố chính trị
“chướng mắt.”
Sau khi Hoover qua đời vào năm 1972, một
loạt các hồ sơ theo dõi những người bất đồng chính kiến, các nhà hoạt
động, v.v. được FBI công bố. Đó là các hồ sơ mật, các hồ sơ bị dán nhãn “khiêu dâm” mà đối tượng bị điều tra là những người Mỹ gốc Phi, người đồng tính, những người phản đối chiến tranh và những ai bị gọi là “cánh tả”.
Một trong những hồ sơ mật nổi bật chính là tài liệu ghi âm lén trong nhiều năm liền về những sinh hoạt hằng ngày của Mục sư Martin Luther King, Jr. – người lãnh đạo của Phong trào Dân quyền ở Mỹ những năm 1960.
Vị thế độc lập của FBI ngày nay
Vì quyền lực của Hoover là quá lớn trong
gần năm thập kỷ, nên vào năm 1968, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua một đạo
luật giới hạn nhiệm kỳ của giám đốc FBI là 10 năm. Tổng thống có thể bổ
nhiệm chức vụ này, và Thượng viện sẽ tổ chức điều trần để xem xét có
thông qua hay không.
Quốc hội còn có thể ban hành một đạo
luật đặc biệt để kéo dài thêm thời gian tại chức của giám đốc FBI nếu có
lý do hợp lý sau khi nhiệm kỳ 10 năm chấm dứt. Robert S. Mueller là
giám đốc FBI duy nhất trong lịch sử (sau năm 1968) được Quốc hội đồng ý
thông qua một nhiệm kỳ thứ hai trong năm 2011 để ông được tiếp tục vai
trò thêm hai năm nữa.
Tính độc lập của cơ quan FBI còn được
thể hiện qua việc các tổng thống, từ thời Obama trở về trước, đều hết
sức e dè khi muốn sa thải người đứng đầu cơ quan này, cho dù họ có thẩm
quyền làm điều đó. Năm 1993, khi muốn sa thải Giám đốc FBI William
Sessions vì những vi phạm về đạo đức nghề nghiệp, Tổng thống Bill
Clinton đã phải giao vụ việc này lại cho Bộ trưởng Tư pháp Janet Reno
thẩm định và đưa ra quyết định sau cùng.
Như đã thành truyền thống chính trị tại
Mỹ, các giám đốc FBI và tổng thống luôn cố tình “tránh mặt” nhau để giữ
vững hình ảnh độc lập và không chính trị hóa của cơ quan điều tra liên
bang. Vì vậy, hình ảnh của FBI trong lòng công chúng Mỹ luôn là một tổ
chức “liêm khiết, dũng mãnh, và độc lập” như James Comey đã nói.
Thế nên, chúng ta phần nào hiểu được vì
sao vụ việc Tổng thống Trump sa thải Giám đốc Comey lại trở thành đề tài
được người dân Mỹ rất quan tâm trong những tháng vừa qua. Hơn thế,
chúng ta cũng nhìn thấy được sự độc lập của FBI và Bộ Tư pháp đối với
nhà Trắng qua việc hồ sơ điều tra Tổng thống Trump và những cáo buộc có
liên quan đến việc Nga thao túng cuộc bầu cử 2016 vẫn đang tiếp diễn, mà
người đứng đầu cuộc điều tra chính là một cựu Giám đốc FBI, Robert S.
Muller.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét