Đại nghị hay Tổng thống lưỡng tính?
Ngày 17/5/2017, Tạp chí Tia Sáng (thuộc Bộ Khoa Học Công nghệ)
- một tờ báo nhà nước được xếp vào số ít ỏi cơ quan báo chí mang quan điểm phản
biện và có hơi hướng cấp tiến, đã chính thức đăng bài viết “Nhất thể hóa: Phân
tích để lựa chọn mô hình” của tác giả Nguyễn Sĩ Dũng - cựu Phó Chủ nhiệm Văn
phòng Quốc hội.
Khi còn đương chức, ông Nguyễn Sĩ Dũng là người làm công tác
nghiên cứu cho Quốc hội, thường đề cập đến các vấn đề về cơ chế, chính sách,
nhưng vẫn theo “đường lối chủ trương” mà chưa “xé rào”.
Còn hiện thời, tuy khởi đầu bằng việc phân tích chủ trương
nhất thể hóa của đảng cầm quyền, nhưng bài viết trên của quan chức về hưu Nguyễn
Sĩ Dũng lại đề cập đến một vấn đề được xem là “rất nhạy cảm” đối với thể chế độc
đảng ở Việt Nam: chọn mô hình đại nghị hay mô hình Tổng thống lưỡng tính?
Trước đây, trên mặt báo chí nhà nước thỉnh thoảng cũng có
vài bài viết đề cập đến “đa nguyên” hay bóng gió về “đa đảng”, nhưng hàm lượng
và tính rõ ràng là khá mờ nhạt.
Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên xuất hiện một bài viết
trên báo nhà nước mang tính hàm ý rõ ràng đến thế.
Do tính quan trọng và tính “tín hiệu” của bài viết này, dưới
đây xin trích dẫn phần lớn nội dung bài “Nhất thể hóa: Phân tích để lựa chọn mô
hình” để độc giả tham khảo:
“Mô hình thủ tướng chế còn được gọi là mô hình đại nghị gồm
cộng hòa đại nghị và quân chủ đại nghị… Trong mô hình đại nghị, đảng nào thắng
cử và có đa số trong quốc hội, thì đảng đó đứng ra thành lập chính phủ. Nghĩa
là, đảng thắng cử vừa nắm cả quyền lập pháp và cả quyền hành pháp ở trong tay.
Chính vì vậy, không có sự phân lập hay kiểm soát lẫn nhau rõ ràng giữa quyền
hành pháp và quyền lập pháp trong mô hình đại nghị. Thực tế là trong mô hình
này, quyền lập pháp và quyền hành pháp hòa lẫn (fusion) vào nhau. Đây là mô
hình rất cần được cân nhắc khi tiến hành nhất thể hóa vì các lý do sau đây:
Một là, mô hình đại nghị đã mang lại sự thịnh vượng và phát
triển cho nhiều nước nhất trên thế giới. Chúng ta có thể kể ra đây các nước như
Anh, Úc, Canada, New Zealand, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Nhật Bản, Singapore…
Hai là, cách thức tổ chức hệ thống của chúng ta đang có khá
nhiều điểm tương đồng với mô hình này. Có thể kể ra đây một số điểm tương đồng
như: Đảng có đa số trong Quốc hội nên Đảng lựa chọn nhân sự cho Chính phủ và thực
chất là thành lập Chính phủ; Đảng nắm cả quyền lập pháp và quyền hành pháp;
Chính phủ hình thành trên cơ sở Quốc hội và chịu trách nhiệm trước Quốc hội…
Mô hình tổng thống chế còn được gọi là mô hình cộng hòa tổng
thống. Trong mô hình này, chính phủ không hình thành trên cơ sở của quốc hội và
cũng không chịu trách nhiệm trước quốc hội. Người dân bầu trực tiếp ra tổng thống
và trao quyền hành pháp cho tổng thống. Người dân cũng bầu ra quốc hội và trao
quyền lập pháp cho quốc hội. Nhiều người gọi đây là mô hình phân quyền cứng vì
không có sự hòa lẫn giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Tuy nhiên, cũng cần
chú ý là trong mô hình này, nguyên tắc cơ bản vẫn không hoàn toàn là tam quyền
phân lập, mà là cân bằng và kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền. Ví dụ quốc hội
thông qua luật thì tổng thống có quyền phủ quyết luật và tòa án có quyền phán xử
về tính hợp hiến của luật. Mô hình cộng hòa tổng thống chỉ nên được coi là một
mô hình được nêu ra để tham khảo. Lý do là vì ngoài nước Mỹ ra, mô hình này gần
như đã không đưa lại sự thịnh vượng và phát triển cho bất kỳ một nước nào khác.
Sự kết hợp giữa mô hình đại nghị và mô hình tổng thống đã
cho ra đời một mô hình thiết kế hệ thống thứ ba được nhiều nước trên thế giới
áp dụng. Đó là mô hình tổng thống lưỡng tính. Đặc điểm nổi bật của mô hình này
là chính phủ vừa có tổng thống và vừa có thủ tướng. Quyền hành pháp được phân
chia cho hai yếu nhân nói trên theo những tỷ lệ khác nhau tùy vào mỗi nước. Tuy
nhiên, quyền hoạch định những chính sách lớn và quyền về quốc phòng, an ninh và
ngoại giao thường thuộc về tổng thống. Trong mô hình này, tổng thống thường có
vị thế độc lập với quốc hội, nhưng thủ tướng và nội các của thủ tướng lại phải
chịu trách nhiệm trước quốc hội. Đây là mô hình mà Liên bang Nga và đa số các
nước cộng hòa xô-viết trước đây đã lựa chọn trong quá trình chuyển đổi. Đối với
chúng ta, đây cũng là mô hình rất cần tham khảo vì những lý do sau.
Một là, đây là mô hình duy nhất mà lịch sự hiện đại của thế
giới đã ghi nhận là đưa được Hàn Quốc và Đài Loan từ thế giới thứ ba lên thế giới
thứ nhất. Không có một mô hình thể chế nào khác nữa làm được điều này, ngoại trừ
trường hợp mô hình đại nghị đối với Singapore. Tuy nhiên, Singapore thực chất
là một thành phố vì quốc gia này rất nhỏ bé.
Hai là, thực chất chúng ta đã từng có mô hình tổng thống lưỡng
tính theo Hiến pháp năm 1946. Trong nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời đó
chúng ta đã từng có Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đều nắm quyền hành
pháp.
Như vậy, thực chất là có hai mô hình chúng ta có thể lựa chọn
để nhất thể hóa giữa Đảng và Nhà nước. Đó là mô hình đại nghị và mô hình tổng
thống lưỡng tính…
Nếu nhất thể hóa là việc Đảng hóa thân vào Nhà nước, thì lựa
chọn mô hình để nhất thể hóa là điều đầu tiên quan trọng nhất chúng ta phải
làm. Bởi vì rằng, nếu chúng ta lựa chọn mô hình thủ tướng chế thì người đứng đầu
Đảng sẽ phải làm thủ tướng như ở Anh, ở Nhật… Nếu chúng ta lựa chọn mô hình tổng
thống chế thì người đứng đầu Đảng phải làm tổng thống như ở Mỹ, ở Indonesia…”
Bế tắc
Đáng chú ý, Nguyễn Sĩ Dũng đã đăng bài “Nhất thể hóa: Phân
tích để lựa chọn mô hình” trên facebook của ông trùng với thời gian diễn ra Hội
nghị Trung ương 5 của đảng cầm quyền.
Việc Tạp chí Tia Sáng “dũng cảm” đăng bài viết “Nhất thể
hóa: Phân tích để lựa chọn mô hình”, như một công bố chính thức trên hệ thống
truyền thông, có thể được xem là một tín hiệu về những thay đổi thể chế chính
trị ở Việt Nam trong tương lai, mà gần nhất có thể trong 1-3 năm tới.
Bài viết trên xuất hiện trong bối cảnh vừa âm ỉ, vừa râm ran
dư luận về khả năng có thể hình thành thể chế “đảng trong đảng” ở Việt Nam. Từ
năm 2016, đã xuất hiện những cuộc trao đổi trong giới quan chức cao cấp hưu trí
và giới trí thức “phản biện trung thành” về khả năng đổi tên đảng Cộng Sản trở
về tên đảng Lao Động như trong quá khứ xa. Hoặc có thể “tách đảng” thành hai -
vừa đảng Cộng Sản vừa đảng Lao Động trong tương lai gần.
Từ trước Tết nguyên đán 2017, lại râm ran dư luận trong giới
“phản biện trung thành” về khả năng có thể đề nghị hình thành thể chế “đảng
trong đảng”, nhưng với một cái tên mới hoàn toàn cho đảng cầm quyền.
Dường như chưa bao giờ, kể từ thời Liên Xô sụp đổ vào đầu thập
kỷ 90 của thế kỷ trước, không khí và nhu cầu về đa nguyên và đa đảng lại cấp
thiết như lúc này ở Việt Nam.
“Bế tắc” là từ ngữ không còn lấp ló nơi cửa miệng của giới
quan chức, mà đã được một số quan chức can đảm và bạo miệng nhất nói ra hoặc thốt
ra. Vào năm 2015, Bộ trưởng Kế hoạch đầu tư Bùi Quang Vinh đã trở thành một
trong số những người dám nói thẳng ngay trong một cuộc tập huấn chính trị “có
thứ đó đâu mà tìm”, khi ông được học viên hỏi về tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Quan chức đã thế, nhưng giới trí thức có hơi hướng cấp tiến
còn mạnh miệng hơn nhiều. Nói đủ thứ, từ chuyện nội bộ “đảng nát như tương” đến
chuyện kinh tế suy sụp, xã hội nhiễu loạn, còn lý tưởng xã hội chủ nghĩa hay “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của ông Nguyễn Phú Trọng đã
không còn ăn nhập gì với một hiện thực đầy rẫy bế tắc…
Nguồn gốc của căn bệnh quá trầm kha, rốt cuộc được cho rằng
chủ yếu do cơ chế một đảng gây ra. Cho đến giờ này, chống tham nhũng đã trở nên
vô phương ở Việt Nam. Độc đảng chính là nguồn cơn sinh ra quốc nạn tham nhũng.
Chỉ còn cách đa đảng thì may ra mới cứu vãn được dân tộc,
người nghèo và đương nhiên cứu cả giới quan chức đương chức lẫn về hưu.
Xu thế
Nhưng không chỉ phản ứng đối với ý thức hệ giáo điều, tự
thân “xung đột nội bộ” cũng góp phần đẻ ra nhu cầu hướng đến đa đảng.
Sau Đại hội 12 vào đầu năm 2016, những nhóm quyền lực cũ và
mới song song tồn tại và sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều. Nhưng cốt tử hơn, những
nhóm này - trong mối kết nối chặt chẽ với các nhóm lợi ích cũ và mới - đang
ngày càng nhận ra tương lai hoàn toàn bế tắc nếu cứ cắm đầu tuân theo những bản
nghị quyết vô hồn về “chủ nghĩa xã hội” hoặc “nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Một trong những lý do đơn giản nhất là ngày càng lo sợ sự
bùng nổ phản kháng và hành động trả thù của dân chúng, đặc biệt từ những người
dân đã bị biến thành nạn nhân khốn cùng của chế độ. Một bài toán rất thực tế:
giới quan chức tìm đâu ra lối thoát chính trị và lối thoát sinh mạng ở Việt Nam
và cả trên “trường quốc tế”, trong khi tài sản và thân nhân của họ đã hiện diện
ở khắp các nơi - Mỹ, Canada, Úc, Tây Âu…?
Bài viết “Nhất thể hóa: Phân tích để lựa chọn mô hình” của
tác giả Nguyễn Sĩ Dũng là một chỉ dấu đầu tiên cho thấy nhu cầu đa đảng đã
không chỉ chìm ẩn trong não trạng, không chỉ mấp mé nơi cửa miệng, không chỉ đã
được phát ngôn với sự bức xúc nhất định, mà còn bắt đầu được khơi mào bằng truyền
thông.
Để có thể đưa chúng ta đến một kết luận sơ bộ về bầu không
khí chính trị - xã hội Việt Nam: xu hướng đa đảng đang và sẽ trở thành xu thế,
có thể là xu thế lan rộng, chỉ trong ít năm nữa.
Tuy nhiên trong vài ba năm tới, xu thế đa đảng không phải xuất
phát từ “thế lực thù địch” hay “xã hội dân sự” chính quyền thường quy kết, mà
có thể bắt nguồn từ chính nội bộ đảng. Xu thế này đang và sẽ mang tính xác đáng
đủ lớn để những quan chức như ông Trương Minh Tuấn không thể viện lý do “chống
tự diễn biến, tự chuyển hóa” để ngăn chặn. Thậm chí đến một lúc nào đó, cả những
người cực kỳ bảo thủ như Nguyễn Phú Trọng cũng có thể phải chép miệng “Đành vậy,
không còn cách nào khác…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét