Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh, 1976. Hình: Marc Riboud/Phan Ba Blog
Tháng 12/1979, tổ chức Ân xá Quốc
tế (Amnesty International) đã có chuyến làm việc chính thức 10 ngày tại Việt
Nam về vấn đề giam giữ các cựu quân nhân, nhân viên và quan chức của chính phủ
Việt Nam Cộng hòa (VNCH) sau ngày 30/4/1975.
Họ đã gặp gỡ và làm việc với
chính phủ, cũng như được sắp xếp để thăm một số tù nhân tại các trại giam Chí
Hòa (Sài Gòn), Xuyên Mộc (Đồng Nai), Hàm Tân (Thuận Hải), Hà Tây (Hà Sơn Bình),
và Nam Hà (Hà Nam Ninh).
Tháng 3/1981, Ân xá Quốc tế đã
công bố một bản báo cáo dài 26 trang về kết quả của chuyến đi đó, tóm lược tình
hình của những tù nhân bị giam giữ tại các trại cải tạo (re-education camp) khắp
cả nước. Báo cáo còn bao gồm thư phúc đáp, trả lời qua lại giữa tổ chức này và
nhà nước Việt Nam trong năm 1980.
Báo cáo của Ân xá Quốc tế cho rằng,
việc nhà nước Việt Nam tiến hành bắt bớ các cựu quân nhân, nhân viên và quan chức
VNCH, cùng những người bất đồng chính kiến khác, cũng như giam giữ họ liên tục
không thông qua xét xử từ 1975 đến 1979, là một sự vi phạm quyền con người
nghiêm trọng dựa theo luật nhân quyền quốc tế.
Trước hết, Ân xá Quốc tế cho biết,
họ luôn có mối quan ngại về tình hình của các cựu quân nhân, nhân viên và quan
chức VNCH sau 30/4/1975.
Trong thực tế, các trại cải tạo
được thiết lập không khác gì các trại giam thông thường. Thế nhưng, những người
bị đưa vào đây vốn không hề bị cáo buộc bất kỳ một tội danh nào, cũng như không
được đưa ra truy tố hay xét xử theo luật định.
Họ bị đưa đi học tập cải tạo chỉ
vì họ đã tham gia vào quân đội hoặc chính quyền VNCH trước kia.
Lịch sử hình thành chế độ cải tạo
dành cho cựu quân nhân, nhân viên và quan chức VNCH
Ngày 30/4/1975, Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CPCM) lật đổ thành công chính quyền VNCH
và lập ra Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CHMN).
Trong thời gian 15 tháng, CHMN đã
là một quốc gia độc lập, quản lý toàn bộ miền Nam Việt Nam từ 30/4/1975 đến
2/7/1976.
Uỷ ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định
tổ chức họp báo quốc tế ngày 8/5/1975. Người đứng giữa, đeo kính râm là tướng
Trần Văn Trà. Nguồn: Herve GLOAGUEN/Gamma-Rapho via Getty Images.
Ngày 4/5/1975, tức chỉ 5 ngày sau
khi chiếm được Sài Gòn, Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định đã được
CHMN thành lập để tiếp quản miền Nam Việt Nam.
Ủy ban Quân quản đã yêu cầu tất cả
cựu quân nhân, nhân viên và quan chức chế độ cũ phải đăng ký trình diện tại địa
phương. Đến ngày 31/5/1975, đã có 44.369 đối tượng đến đăng ký.
Ngày 11/6/1975, Ủy ban Quân quản
ra quyết định mở các lớp học tập cải tạo chỉ dành cho các binh sỹ, nhân viên
chính phủ, và cả các thành phần “cốt cán” của chế độ Sài Gòn cũ, nhằm giúp họ
trở thành “những công dân mới.”
Đến đầu và giữa năm 1976, CHMN đã
ban hành 2 sắc lệnh về những chính sách dành cho quân nhân, tướng lĩnh, nhân
viên công chức và các quan chức của VNCH:
Sắc lệnh 1-CS/76 ngày 28/1/1976 về “chính
sách đối với những binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan, ngụy quân, nhân viên ngụy
quyền và đảng viên các đảng phái phản động đã đăng ký trình diện và học tập cải
tạo tốt.”
Sắc lệnh 2-CS/76 ban hành ngày 25/5/1976 về
“chính sách đối với tất cả những người làm việc trong quân đội, chính quyền và
các tổ chức chính trị phản động của chế độ cũ.”
Theo Ân xá Quốc tế, Điều 9, 10,
và 11 của Sắc lệnh 2-CS/76 nêu rõ, những người thuộc diện bị tập trung học tập
cải tạo chỉ phải tham gia tối đa là ba năm, kể từ ngày bắt đầu cải tạo. Họ có
thể được trả tự do sớm hơn, nhưng không ai bị giữ quá ba năm.
Những người có bằng chứng rõ ràng
là họ đã gây ra những tội ác trong thời gian chế độ cũ nắm quyền và thuộc vào
diện có “nợ máu với nhân dân” sẽ bị mang ra truy tố, xét xử theo luật định.
Báo cáo năm 1981 của Ân xá Quốc tế
cho biết, chính phủ Việt Nam đã thừa nhận có hơn một triệu quân nhân, nhân viên
và quan chức chính phủ VNCH đã ra trình diện và đăng ký học tập cải tạo.
Tuy nhiên, báo cáo còn cho biết
thêm, có trên dưới 40.000 người trong số đó đã bị giam giữ liên tục từ năm 1975
đến năm 1979, tức là trong bốn năm trời mà không thông qua bất kỳ thủ tục truy
tố và xét xử nào, cũng như không được thông báo là mình đã phạm tội gì.
Theo Ân xá Quốc tế, đây là hành
vi vi phạm vào Điều 11 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, cũng như các Điều 5 và
9 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, là những điều luật quốc
tế nghiêm cấm các hành vi bắt người tùy tiện và giam giữ không thông qua xét xử
của nhà nước.
Đến tháng 12, 1979, chính phủ Việt
Nam đã thông báo đến Ân xá Quốc tế rằng có khoảng 26.000 người vẫn còn bị giam
giữ.
Ân xá Quốc tế cho rằng việc thừa
nhận vẫn còn giam giữ những người thuộc quân đội và chế độ VNCH lâu hơn thời hạn
ba năm (tính từ tháng 5/1975), còn cho thấy Việt Nam đã vi phạm Sắc lệnh
2-CS/76 do chính CHMN ban hành.
Từ 3 năm “học tập” đến giam giữ
không xét xử vô thời hạn
Khi đến Việt Nam làm việc cùng
chính phủ, Ân xá Quốc tế được giải thích rằng, việc một số cá nhân của chế độ
cũ vẫn còn bị giam giữ mà không trải qua quy trình truy tố, xét xử là do đã có
thay đổi trong việc áp dụng pháp luật tại đây.
Sắc lệnh 2-CS/76 đã không còn được
áp dụng tại Việt Nam sau ngày 2/7/1976. Đó là ngày hai quốc gia, CHMN ở miền
Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ở miền Bắc, thống nhất và thành lập một
quốc gia mới, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Sắc lệnh 2-CS/76 đã được thay thế
bằng Nghị quyết 49 NQ/TVQH do Ủy ban Thường vụ Quốc hội VNDCCH ban hành ngày
20/6/1961 tại miền Bắc Việt Nam, về việc tập trung giáo dục cải tạo những phần
tử có hành động nguy hại cho xã hội. Từ ngày thống nhất, Nghị quyết 49 được áp
dụng cho cả nước và vô hình trung, đã vô hiệu hóa Sắc lệnh 2-CS/76 của CHMN.
Theo Nghị quyết 49 NQ/TVQH, chính
quyền có thể thực hiện việc bắt giam một người để giáo dục cải tạo mà không cần
thông qua xét xử, nếu như người đó thuộc “phần tử phản cách mạng ngoan cố, có
hành động phương hại đến an ninh chung” hoặc là “phần tử lưu manh chuyên nghiệp.”
Thời gian của việc cải tạo được ấn
định là ba năm, và một người có thể được trả tự do sớm hơn thời hạn này nếu cải
tạo tốt.
Tuy nhiên, nếu sau ba năm cải tạo
mà vẫn bị xem là ngoan cố và không chịu cải tạo thì thời gian cải tạo có thể
kéo dài hơn mà không có hạn định cho việc kết thúc.
Báo cáo của Ân xá Quốc tế năm
1981 đã đánh giá Nghị quyết 49 là sự vi phạm nhân quyền trầm trọng và cần phải
được xóa bỏ ngay lập tức, vì nó tước đi quyền được xét xử công bằng của một
công dân.
Thế nhưng, cho đến thời điểm hiện
tại, tháng 6/2017, Nghị quyết 49 vẫn có hiệu lực sử dụng. Về lý thuyết, nó vẫn
có thể được áp dụng cho bất kỳ công dân Việt Nam nào, ngay tại lúc này.
Bắt giam và cải tạo cả những người
không thuộc về quân đội hay chính quyền VNCH
Một cựu quân nhân VNCH đang lao động
tại một trại cải tạo ở Tây Ninh, tháng 6/1976. Ảnh: Getty.
Ân xá Quốc tế cũng nêu ra những hồ
sơ bị bắt giam và đưa đi cải tạo của những người không nằm trong quân đội hay
chính quyền Sài Gòn cũ.
Những trường hợp nổi bật và được
nêu đích danh trong báo cáo gồm có cựu Khoa trưởng Đại học Luật khoa Sài Gòn
(1973-1975) Vũ Quốc Thông, một chính trị gia đối lập tại miền Nam là Hồ Hữu Tường,
và nhà văn Duyên Anh.
Những người này hoàn toàn không nằm
trong diện bị bắt buộc trình diện học tập cải tạo theo yêu cầu của Ủy ban Quân
quản. Họ là giáo sư, chính trị gia đối lập, nhà báo, và nhà văn, vốn là những
trí thức tiêu biểu của miền Nam Việt Nam.
Ân xá Quốc tế cũng cho biết, họ
không nhận được bất kỳ thông tin gì từ phía nhà nước Việt Nam để có thể kết luận
những người này có liên hệ với chính quyền VNCH.
Ngược lại, cộng đồng quốc tế biết
đến Khoa trưởng Vũ Quốc Thông là một luật gia và trí thức nổi tiếng tại miền
Nam. Cũng như ông Hồ Hữu Tường, ông không những không tham gia vào chính quyền
VNCH mà còn là một trong những tiếng nói đối lập và là nhà phê bình chính trị sắc
sảo.
Nhà văn Duyên Anh là một cây bút
có tên tuổi với các tác phẩm hiện thực, phê bình một cách sống động thực trạng
xã hội miền Nam trước 1975.
Họ chính là những hồ sơ tù nhân
lương tâm Việt Nam (Vietnamese prisoners of conscience) đầu tiên của Ân xá Quốc
tế sau năm 1975.
Ngoài ra, báo cáo cũng nói đến vấn
đề áp dụng bắt buộc học tập cải tạo đối với những người đã bị bắt khi tìm cách
rời bỏ Việt Nam không chính thức. Tức là những người “vượt biên” bất thành tại
Việt Nam sau 30/4/1975.
Bộ luật Hình sự 2015 vừa được
thông qua tháng 6/2017 vẫn giữ Điều 347 về việc xử lý hình sự tội xuất nhập cảnh
trái phép, và Điều 121 cho tội trốn đi nước ngoài để chống chính quyền nhân
dân.
Trong khi đó, từ năm 1981, báo
cáo của Ân xá Quốc tế đã cho rằng, nhà nước không thể xử lý hình sự những người
muốn rời bỏ Việt Nam, cho dù họ ra đi dưới bất kỳ hình thức nào đi nữa.
Ân xá Quốc tế trích dẫn Điều 13 của
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Điều 12, phần 2 của Công ước Quốc tế về các
Quyền Dân sự và Chính trị. Theo đó, một người luôn luôn có “quyền tự do rời bỏ
bất kỳ quốc gia nào, kể cả quê hương của họ”.
Và vì vậy, Ân xá Quốc tế đã bày tỏ
sự quan ngại, cũng như yêu cầu Việt Nam chấm dứt việc bắt giam và đưa đi cải tạo
(cho dù là ngắn hạn) những người vượt biên không thành công. Vì đó cũng là một
hành vi vi phạm quyền con người dựa theo luật Quốc tế.
Bên ngoài Trại cải tạo Z30D, huyện
Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải (nay là tỉnh Bình Thuận). Sau 1975, khoảng 2.000 cựu
viên chức, quân nhân của chế độ cũ bị cải tạo tại đây. Đến năm 1988, phần lớn
trong số đó đã ra khỏi trại. Nguồn ảnh và thông tin: Kienthuc.net.vn.
Tình trạng giam giữ ở các trại cải
tạo kém, có dấu hiệu tra tấn, nhục hình
Báo cáo của Ân xá Quốc tế cũng
đưa ra những quan ngại về việc người bị giam tại các trại cải tạo bị tra tấn và
nhục hình.
Trước hết, các trại cải tạo vốn
không phải là những nhà tù thông thường. Không có bất kỳ quy định của pháp luật
nào được áp dụng tại những nơi này. Không có quy định cụ thể và rõ ràng, thì
nguy cơ lạm quyền, cũng như khả năng người quản lý trại giam sử dụng tư hình
cũng cao hơn.
Ân xá Quốc tế còn cho rằng, ngay
cả hành vi bắt và giam giữ những cựu quân nhân, nhân viên và quan chức VNCH mà
không thông báo đến gia đình họ các thông tin về nơi giam giữ hay thời hạn giam
giữ đã là một hình thức tra tấn đối với người bị giam và thân nhân.
Ngoài ra, tình hình thực phẩm
khan hiếm, cũng như việc chăm sóc sức khỏe yếu kém tại những trại cải tạo càng
khiến cho tình hình đáng quan ngại hơn.
Bản báo cáo năm 1981 đã đơn cử
trường hợp của chính trị gia Hồ Hữu Tường. Vào thời điểm phái đoàn của Ân xá Quốc
tế đến Việt Nam, ông Tường đã bị giam giữ không thông qua xét xử trên 2 năm
Tháng 6, 1980, mặc dù đã biết ông
mang bệnh hiểm nghèo và đã đi vào giai đoạn cuối nhưng chính quyền vẫn không đồng
ý trả tự do để ông có thể đoàn tụ cùng gia đình ở Sài Gòn. Ngược lại, họ đã
chuyển ông từ trại cải tạo ở Xuyên Mộc, Bà Rịa đến bệnh xá của trại giam Hàm
Tân, Minh Hải. Ba tuần sau, ông qua đời ngay sau khi được trả về với gia đình.
Ân xá Quốc tế kết luận, chính phủ
Việt Nam cần chấm dứt ngay lập tức việc giam giữ tùy tiện, kéo dài vô thời hạn
đối với những cựu quân nhân và nhân viên, quan chức của chế độ VNCH.
Họ cũng yêu cầu xóa bỏ việc sử dụng
Nghị quyết 49 về việc giam giữ để cải tạo mà không thông qua xét xử, cũng như
yêu cầu nhà nước phải cải thiện tình trạng giam giữ tại các trại cải tạo này
càng sớm càng tốt.
Tài liệu tham khảo:
Báo cáo về chuyến làm việc tại Việt Nam
tháng 12, 1979 của Ân xá Quốc tế
Nghị quyết về việc thi hành và xây dựng
pháp luật thống nhất cho cả nước
Báo Hà Nội Mới, Số 2282, 13/6/1975
Giữ gìn trật tự trị an TP Hồ Chí Minh những
ngày đầu sau giải phóng
Nghị quyết 49 NQ/TVQH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét