Tôi có thời kỳ khoảng 4 năm làm báo ở Đài Tiếng nói Việt Nam
nhưng không phải nhà báo, phóng viên mà là làm hợp đồng. Nói làm hợp đồng cũng
không đúng mà là làm thuê. Các phòng thuê tôi vào để làm đỡ việc chứ chẳng có hợp
đồng gì vì cơ quan không có chế độ hợp đồng, kiểu như ta ra chợ lao động gọi
người vào thuê chăm sóc, tỉa cây thôi. Tiền công được trích từ tiền khoán
chương trình. Tiền khoán ngoài tiền lương phóng viên nhà báo, có chương trình
12 triệu, có chương trình 18 triệu/tháng. Tiền công tôi có khi 500 nghìn đồng,
cũng có lần 1 triệu, đưa bao nhiêu tôi cầm bấy nhiêu. Nói chung đủ tiền xăng
xe, ăn trưa và thỉnh thoảng rủ bạn uống bia, còn ăn vẹm vào vợ con bữa tối. Đó
là vào nửa cuối thập niên 90 thế kỷ trước.
Đầu tiên tôi làm cho phòng kinh tế (tên phòng gọi theo tên
chương trình phát thanh) mà anh trai tôi Nguyễn Quang Huy làm chủ nhiệm chương
trình. Không hiểu tại sao người phụ trách có phòng gọi là trưởng phòng nhưng
phòng này gọi là chủ nhiệm. Chức năng thì như nhau nhưng có lẽ không bổ nhiệm
được trưởng phòng vì thiếu điều kiện nào đó như không phải đảng viên chẳng hạn
nên gọi là chủ nhiệm chăng. Sau tôi sang làm cho Chương trình Thị trường - Giá
cả. Hai phòng đều thuộc Ban Kinh tế - Khoa học - Công nghệ. Tôi học kinh tế quốc
dân nên làm việc cho hai phòng này cũng thuận.
Việc của tôi là biên tập chương trình gồm chọn bài, biên tập,
đánh máy, trình duyệt cuối cùng mang đi thu thanh. Thu thanh là khâu cuối cùng,
có thể về, còn phát sóng là việc của bộ phận kỹ thuật. Với các nhà báo, phóng
viên thì nhàn thôi nhưng công việc của tôi liên tục từ 8 giờ sáng cho đến 7,8
giờ tối.
Nguồn bài vở hầu hết chọn từ các báo in. Không biết các
chương trình khác thế nào chứ 2 chương trình tôi đã làm thấy thư bài của bạn đọc
gửi về rất ít. Phóng viên có tháng có bài, có tháng không. Tôi hỏi thì trưởng
phòng bảo đúng ra mức giao cho phóng viên mỗi tháng 2 bài nhưng chẳng ai thực
hiện được. Tôi cũng tham gia viết bài, viết được bài nào thì đưa vào chương
trình. Cũng có khi tôi xin đi cơ sở để viết. Bài được sử dụng tuy không có nhuận
bút nhưng là cách để rèn luyện tay viết.
Sáng nào các phòng cũng nhận được vài chục tờ báo đủ loại. Mỗi
phòng chọn lấy những bài phù hợp với chương trình của mình, lấy kéo cắt ra rồi
xếp vào thành chương trình từng ngày. Việc này gọi là “khai thác”. Đầu tiên là
trưởng phòng trực tiếp chọn bài, sau giao luôn cho tôi để anh rảnh tay. Mỗi
chương trình thời lượng phát sóng 15 hoặc 10 phút gồm 3 bài, 1 bài chính, 1 bài
vừa vừa và 1 bài ngắn. Vì vậy khi biên tập phải cắt đi sao cho phù hợp với thời
lượng phát sóng, xong sửa chữa câu cú rồi đánh máy hoặc vừa đánh máy vừa sửa.
Riêng bài thứ 3 thì không cần đánh máy, có thể dán vào một tờ giấy khổ A4, để
nguyên hoặc sửa trực tiếp trên bài báo, vì vậy còn gọi là báo dán. Kéo văn
phòng và hồ dán là những thứ không thể thiếu được khi hành nghề. Máy chữ thì
dùng loại máy cổ, in bằng giấy than, mỗi lần có thể được 3 bản, kiểu như máy chữ
của ông Hồ Chí Minh ở Việt Bắc.
Tôi vào việc khá nhanh, chỉ cần 3, 4 ngày là có thể đảm nhận
được toàn bộ công việc được giao, tất nhiên lúc cần thiết vẫn có sự hỗ trợ của
các phóng viên khác. Chủ nhật, ngoài chương trình thường, thêm một chương trình
30 phút nữa do các phóng viên, nhà báo thực hiện. Tôi làm cần cù, cẩn thận, có
trách nhiệm, câu cú được nên mấy anh trong ban rất quý. Các anh bảo tính mày
khác hẳn anh mày. Anh tôi là người ngang tàng, chưa bao giờ vào đảng nhưng
chuyên môn thì không kém ai. Anh bảo chú cứ thế, cứ thể hiện như là âm bản của
tôi. Tôi bảo em thế nào thì thể hiện ra vậy thôi.
Thông thường chương trình được chuẩn bị trước từ 4, 5 ngày đến
1 tuần. Về nội dung, cũng như các báo khác đều phải theo định hướng. Mỗi tuần
trưởng phòng đi giao ban về phổ biến cho cả phòng chương trình tới tuyên truyền
vấn đề gì, không được đưa tin về vấn đề gì, sự việc gì. Ví dụ như không được
đưa tin về biểu tình ở Thái Bình, không được phát bài hát này nọ… Ở Đài TNVN
cũng được chống tiêu cực, tất nhiên giới hạn ở cấp nào đó, phạm vi nào đó chứ
không phải thích gì viết đó như báo tự do trên mạng bây giờ. Nhưng việc chống
tiêu cực nhiều nhà báo cũng ngại, một là nguy hiểm, hai là mất thu nhập. Nếu đi
các cơ sở (các địa phương, doanh nghiệp) viết bài ca ngợi, quan hệ vui vẻ thì
phong bao cũng khá hơn.
Vì vậy, không nói đến khác chính kiến, nhà báo nào dám chống
tiêu cực đã là dũng cảm lắm. Cả cơ quan báo chí to như Đài TNVN cũng chỉ lốm đốm
vài nhà báo chống tiêu cực chừng mực. Xin nêu một trường hợp đặc biệt về hậu quả
chống tiêu cực là Nhà báo Trần Quang Thành. Thời kỳ 1986 ông làm ở Viện nghiên
cứu Phát thanh - Truyền hình. Ông rất hăng hái chống tiêu cực, cả chống tiêu cực
ngay ở cơ quan ông làm việc. Sau đó, ông, rồi con ông bị mất việc. Ngày
4/7/1991 ông bị tạt acid. Mặt ông bị biến dạng, mất cả môi và mũi, một mắt bị
mù và một mắt thị lực còn 1/10, mất 81% sức khỏe. Năm 2008, ông sang Slovakia
đoàn tụ gia đình. Hiện nay ông là cây bút có tiếng trong làng báo mạng với những
bài viết, bài trả lời phỏng vấn cổ vũ cho phong trào dân chủ, nhân quyền ở Việt
Nam.
Trong thời gian làm ở Đài TNVN, tôi cũng 3 lần có mặt vào
ngày 21/6 gọi là ngày báo chí cách mạng. Ngày ấy hầu như cả cơ quan chẳng ai
làm gì, chỉ tiếp khách và đi chơi. Bàn ghế được kê lại, bày lọ hoa, ấm chén và
chờ khách. Khách đến tặng hoa, nói lời chúc mừng và kèm theo phong bì. Tôi biết
phận, cứ ngồi phòng trong làm việc, thỉnh thoảng có người kéo ra chụp ảnh. Mỗi
lần họp ban (ban là cấp trên phòng) tôi cũng chỉ ngồi làm việc. Các em các cháu
về gọi, tôi cũng không sang vì thấy có cả bia bọt, bánh trái.
Hàng năm, Đài TNVN cũng thông báo tuyển người. Có nhiều cháu
mới ra trường yêu thích nghề báo thấy thông báo cũng hồ hởi làm hồ sơ dự thi
công chức. Tuy nhiên, trúng tuyển chỉ thấy con em cán bộ hay nhà báo lâu năm.
Nói đến những kỷ niệm ở Đài TNVN, không thể không nhắc đến nhà
báo Phạm Chí Thành (Phạm Thành). Tôi biết anh trước khi vào làm việc ở đấy vì
có thời kỳ anh cùng phòng Kinh tế với anh tôi. Tôi gặp Thành vào khoảng 1991,
1992 khi anh vừa xuất bản tập truyện ngắn Hậu Chí Phèo, thể hiện rõ nét hơn chất
gai góc trong ngòi bút của anh. Năm ấy, Phòng Kinh tế, tuy là cơ quan báo chí
nhưng lại được mùa về truyện ngắn: Phạm Thành xuất bản “Hậu Chí Phèo”, Trần Nam
Bình xuất bản “Người sống với vật thể tròn” còn Nguyễn Quang Huy xuất bản tập
truyện ngắn "Người đàn bà nói dối”.
Phạm Thành nói chuyện tự nhiên, vui vẻ, thoải mái. Kể cả khi
khi tôi vào cơ quan làm việc, anh vẫn có thái độ thân tình ấy chứ không có sự
phân biệt tôi là kẻ “ngoại đạo”, “làm thuê”. Gai góc trong ngòi bút và hồn
nhiên trong giao tiếp là hai điều tôi nhận thấy ở con người anh.
Phạm Thành day dứt và chưa bao giờ bằng lòng với nghề làm
báo nhà nước. Kỷ niệm này 21/6 năm nay, anh tâm sự “suốt 36 năm làm báo trong hệ
thống báo chí nhà nước, tôi chưa bao giờ thấy mình được thoải mái và tự do thật
sự, dù có lúc tôi cũng đứng ở vai trò sếp để kiểm duyệt và cho xuất bản báo”.
Nhưng lý do chính mà tôi nhắc đến anh trong bài viết này là anh là người duy nhất
có nguồn gốc từ Đài TNVN và là một trong những nhà báo cộng sản hiếm hoi đứng hẳn
về phía giới cần lao đau khổ, mạnh mẽ lên tiếng cổ vũ cho dân chủ nhân quyền.
Cư dân mạng biết đến anh qua blog Bà Đầm Xòe, sau đó là facebook Thành Phạm.
Sau khi xác định dứt khoát hướng viết mới , anh “như hổ về lại
rừng hay như đại bàng được dang rộng đôi cánh với ý chí dứt khoát bằng một
tuyên ngôn trên blog: ‘Hãy xòe cho rông, mở cho hết/ Trắng bụng, lấm lung với tự
do’”.
Sau không làm ở Đài TNVN nữa thì tôi hay viết bài cho các
báo in. Viết những bài con con thôi theo kiểu nêu ý kiến góp ý xây dựng này nọ,
phản ảnh ba chuyện vặt như hố ga mất nắp gây chết người, ông chủ tịch xã quát
dân, gương người tốt việc tốt…. Viết cho báo nào, tôi phải đặt mua báo ấy để
theo dõi, vì chẳng bao giờ có hồi âm. Những bài gửi đến hầu như đều được đăng cả.
Cứ được 3,4 bài thì tôi đến hỏi nhuận bút. Có những lần đến hỏi thấy biên tập
viên đã “lĩnh hộ”. Người chi trả gọi người ký nhận đến thì các cháu đưa lại cho
1/3, 1/4 gọi là công cung cấp tài liệu (có nghĩa phần còn lại là công biên tập).
Thì ra bài viết của tôi được coi là tài liệu. Vậy họ biên tập những gì? Họ sửa
đi vài chữ, mà thường là sửa theo hướng chữ thay vào kém đi, tôi đọc bài in ra,
rất tiếc. Thậm chí có khi còn tự ý thêm cả ý bịa ra. Tôi ngạc nhiên vì cách làm
ăn này, vừa cẩu thả, vừa coi thường tác giả. Gặp mấy cháu như thế, tôi đoán các
cháu mới vào nghề.
Sở dĩ tôi viết được như sau này là cũng nhờ vào thời gian
làm ở Đài TNVN. Khi anh tôi bảo tôi vào làm, tôi tỏ ý lo ngại mình không đủ khả
năng. Tôi nghĩ làm báo phải giỏi giang lắm vì tôi nhìn từ anh tôi mà ra. Tôi
coi nghề báo là một lãnh địa mà tôi không thể mon men vào được. Anh bảo, chú viết
lách được thì làm báo được, tính chú lại cẩn thận. Nhiều đứa chẳng có trình độ
gì mà nó vẫn là nhà báo. Tôi chỉ sợ làm một thời gian chú lại khinh nghề báo
thôi. Sau này tôi thấy anh nói thế là có cơ sở.
Anh tôi trái tính, nhiều lúc vô lý rất khó chịu nhưng là người
tâm huyết với nghề. Anh làm việc nghiêm túc, sửa bài từng dấu phảy, từng từ
không chính xác, bỏ từng chữ thừa. Đầu tiên anh soi bài tôi biên tập rất kỹ,
sau yên tâm về tôi rồi thì chỉ đọc lướt qua là ký. Anh rất ghét những nhà báo
coi thường nghề của mình. Có người thấy tôi suốt ngày ngồi tỉa tót câu chữ, bảo
mày kỳ công vậy làm gì, xong nó phát lên giời, ai để ý. Lại có anh gọi Đài TNVN
là báo dán. Tôi thấy các anh ấy nói đúng nhưng anh tôi thì rất ghét nói ra những
điều ấy.
Trước đó, thời kỳ tôi đi nhận thầu công trình, có lần tôi với
anh tranh cãi về nghề nghiệp. Anh bảo: “Thế sản phẩm của chú là gì?” Tôi bảo sản
phẩm của em là con đường, là các công trình như hồ, đập, rồi hỏi lại: “Thế còn
sản phẩm của anh?”. Anh nói sản phẩm của tôi là các bài báo. Tôi lại vặn, vậy
nó có giá trị sử dụng như thế nào? Anh bảo nó tuyên truyền cho đường lối, chính
sách của đảng và nhà nước. Tôi chộp được, nói, anh tuyên truyền cho đảng, coi chừng
chỉ có lợi cho đảng chứ không những không có lợi cho dân cho nước mà còn làm hại.
Đấy là những sản phẩm lỗi, sản phẩm hỏng.
Tôi tưởng bị anh chửi cho một trận, không ngờ anh ngẩn người
ra, nói rất hiền: “Ừ nhỉ. Có thể như thế thật”.
Xem ra công việc của tôi hồi ở Đài TNVN khá nhàm chán nhưng
nó lại phù hợp với sở trường và sở thích của mình. Làm việc vất vả, tiền công
thấp lại thấp cổ bé họng vì mình là kẻ làm thuê nhưng mục đích của tôi là học
việc, ở đây là việc viết. Ngoài ra tôi còn biết thêm những điều mà nó tác động
đến quan điểm làm báo của tôi sau này như thấy những cơ quan báo chí khổng lồ
chẳng có ích lợi gì mà còn có hại. Chính anh tôi, nhà báo của nhà nước là người
dẫn dắt tôi vào nghề báo nhưng lại là viết báo độc lập.
Anh tôi mất khi còn 1 năm nữa thì về hưu. Anh đã in mấy tập
thơ và truyện, viết dở 1 cuốn tiểu thuyết. Anh ôm ấp nhiều dự định viết sau khi
về hưu nhưng không thực hiện được. Cuộc đời ngắn ngủi của anh toàn đau khổ và
bi kịch. Tôi nhắc lại những kỷ niệm ở Đài TNVN còn là để tưởng nhớ đến anh nhân
ngày báo chí Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét