Để bảo vệ các quyền và lợi
ích của mình, người dân Đồng Tâm đã phải phản kháng. Song đâu đâu ta
cũng thấy những lời chê trách họ, và ai ai cũng nhìn nhận họ như những
tội nhân lầm lỡ. Từ một dư luận như vậy, khiến chúng ta phải hoài nghi rằng liệu mình đang sống trong một nền chuyên chế hay một nền cộng hòa.
Nhắc lại hai khái niệm
Trong một nền chuyên chế, giới
cai trị nắm quyền tuyệt đối, còn người dân chẳng nắm trong tay chút
quyền lực nào. Ở đó con người chỉ là thần dân chứ không phải là công
dân, việc của anh ta là phải tuân phục kẻ cai trị. Khi anh ta bị dồn đến
đường cùng để rồi phải phản kháng, thì anh ta vẫn bị coi là kẻ có tội,
bởi tự cái việc phản kháng đã là một tội. Nếu anh ta có được tha thứ,
thì đó không phải là do anh ta đã hành động đúng, mà là do sự khoan dung
độ lượng của bậc cai trị bề trên.
Trái lại, nền cộng hòa là kiểu
chính thể mà ở đó người dân cai trị một cách trực tiếp hoặc thông qua
người đại diện. Chính quyền được tạo lập nhằm mục đích bảo vệ các quyền
và sự tự do của người dân, và quyền lực của nó bị giới hạn trong mục
đích ấy. Trong một nền cộng hòa, không có sự phân biệt giữa kẻ cai trị
và thần dân, mà tất cả đều là công dân: không một ai đứng trên luật
pháp, chỉ có luật pháp mới có địa vị tối cao. Khi xảy ra xung đột giữa
người dân với nhau, hay giữa người dân với chính quyền, thì tất cả đều
được xét xử công bằng để đảm bảo công lý được thực thi.
Công lý, sự tự do, tinh thần công – ấy chính là ba giá trị cốt lõi của nền cộng hòa.
Tinh thần Đồng Tâm, tinh thần cộng hòa
Giờ đây, trong mắt chính quyền và một bộ
phận không nhỏ người dân, thì những người Đồng Tâm mang dáng dấp của
những con người khờ dại đang phạm sai lầm. Có vẻ những người này tin
rằng dân chúng cần được dạy dỗ và cần được đối xử khoan hồng độ lượng.
Song chúng ta hãy nhìn lại những gì đã diễn ra ở Đồng Tâm.
Ban đầu, người dân Đồng Tâm đã tôn trọng
pháp luật. Trong suốt những năm qua, họ cần mẫn đấu tranh theo pháp
luật, dựa trên các thủ tục pháp quyền. Họ kiên trì làm đơn khiếu nại nộp
lên các ban ngành huyện và thành phố, và nhẫn nại chờ đợi phản hồi từ
phía chính quyền.
Và rồi, họ đã đấu tranh vì công lý khi
pháp luật không đủ khả năng bảo vệ họ. Những phản ứng của người dân Đồng
Tâm trước chính quyền không đơn thuần là vì những lợi ích cụ thể của
họ, mà còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn và lớn lao hơn, đó là để bảo vệ
công lý và bảo vệ các giá trị cộng hòa. Chắc chắn rằng, nơi nào mà con người còn tin là mình đang đấu tranh vì sự công bình, thì nơi đó còn có hy vọng về công lý – bất kể công lý có thuộc về họ hay không.
Và họ đã khước từ bạo lực. Người dân Đồng
Tâm ý thức rõ về việc làm của mình, họ đã đối xử tử tế với những người
của phía chính quyền mà họ tạm giữ, trong khi những người đại diện của
họ đang bị cơ quan chính quyền bắt bớ. Họ đã mở rộng cửa cho chính quyền
đến đối thoại.
Rõ ràng người dân Đồng Tâm hiểu thế nào
là công lý và thế nào là hành vi đúng mực. Đó là một cảm thức chính trị
rất đáng được nêu cao. Ấy vậy mà chúng ta lại không xiển dương tinh thần
đó của người dân Đồng Tâm. Ấy vậy mà chúng ta lại coi họ như những
người khờ dại.
Bất kể người Đồng Tâm có biết thế nào là
các giá trị cộng hòa hay không, thì họ vẫn đang sống và đấu tranh với
tinh thần ấy. Hãy thử hỏi khi các quyền và tự do của người dân bị xâm
phạm mà người dân lại làm ngơ, thì xã hội sẽ đi về đâu? Khi các giá trị
như công lý, tự do, và các quyền không còn được bảo vệ, thì chắc chắn
con người sẽ trở nên suy đồi. Lúc ấy các cá nhân không còn là công dân
nữa, mà họ trở thành thần dân, và quốc gia cũng không còn là một nền
cộng hòa nữa, mà nó trở thành một nền chuyên chế.
Nhìn ra thế giới
Trong lịch sử nhân loại, có hai nền cộng
hòa vĩ đại. Ấy chính là cộng hòa La Mã và cộng hòa Mỹ. Chúng vĩ đại
không chỉ vì sự thịnh vượng và bền vững với thời gian, mà trên hết là vì
ở đó con người sống như các công dân tự do, được hưởng đầy đủ các quyền
và công lý.
Cộng hòa La Mã tồn tại hơn 450 năm trước
khi suy thoái thành nền quân chủ. Đây là nền cộng hòa nổi tiếng nhất
trong lịch sử, và chính nước Mỹ sau này cũng đã kế thừa các nền tảng
cộng hòa mà La Mã cổ xưa để lại.
Người La Mã đề cao các đức hạnh của con
người như sự tự do, công lý, sự tiết độ, và tinh thần công dân trong
việc tham gia vào các vấn đề quốc gia. Để bảo vệ các giá trị đó, họ đã
tạo ra một thiết chế nhằm ngăn chặn sự tùy tiện của chính quyền. Đó là
một dạng thể chế hỗn hợp, trong đó quyền lực được phân chia cho ba bộ
phận khác nhau là giới lãnh đạo, viện nguyên lão, và các hội đồng công
dân. Ba thực thể này kiểm soát lẫn nhau để tránh việc lạm quyền, nhờ đó
duy trì sự ổn định của thể chế và bảo vệ các giá trị của nền cộng hòa. Ý
tưởng về phân chia và kiểm soát quyền lực này chính là bài học được
truyền lại cho các nhà tư tưởng như Machiavelli, Montesquieu, hay các
nhà lập quốc Mỹ như Madison, Jefferson.
La Mã xưa kia được dẫn dắt bởi những con người mang tinh thần cộng hòa vĩ đại như Cicero
và Brutus. Họ yêu mến nền cộng hòa tới mức không chấp nhận sự chuyên
chế của một người La Mã vĩ đại khác – có lẽ là vĩ đại nhất – là Julius
Caesar. Caesar đã bị một nhóm nguyên lão hiệp lực ám sát, bởi ông ta
muốn trở thành nhà độc tài suốt đời và chắc chắn điều này sẽ tiêu diệt
nền cộng hòa lâu đời của La Mã. Tuy nhiên, những nỗ lực của viện nguyên
lão vẫn chưa đủ. Cuối cùng nền cộng hòa La Mã cũng biến mất, và trở
thành nền quân chủ khi giới chính khách nước này chỉ khao khát quyền
lực, còn các công dân lại thờ ơ với công lý, tự do.
Cộng hòa Mỹ cũng vĩ đại không kém. Những
người di cư đến Bắc Mỹ ban đầu đã thiết lập nên các chính quyền nhân dân
tự quản. Tuy nhiên lúc ấy họ vẫn nằm dưới sự bảo hộ của Anh. Trước
những đối xử bất công của chế độ quân chủ Anh, người Mỹ đã nổi dậy đánh
đổ sự bảo hộ này, và thiết lập nên nền cộng hòa Mỹ. Tinh thần cộng hòa
ấy được thể hiện rõ trong bản tuyên ngôn độc lập do Thomas Jefferson
thảo nên:
“Chúng tôi khẳng định một chân lý
hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho
họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống,
quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho những quyền
lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được những quyền
lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân, rằng bất cứ khi nào
một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân
có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền
mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền
hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và
hạnh phúc của họ.”
Nước Mỹ không chỉ có những nhà lãnh đạo
tài hoa, mà họ còn có những nhà cộng hòa vĩ đại, những người yêu mến tự
do trên hết, như George Washington, Thomas Jefferson, James Madison,
Alexander Hamilton, và nhóm Brutus. Những người này đã hiện thực hóa
tinh thần của bản tuyên ngôn độc lập trên vào trong hiến pháp Mỹ. Đây là
bản hiến pháp thành văn lâu đời nhất trên thế giới, trong đó nó định rõ
một loạt các cơ chế kiểm soát quyền lực như tam quyền phâp lập, kiểm
soát cân bằng, và chủ nghĩa liên bang.
Khó mà tưởng tượng được nước Mỹ sẽ như
thế nào nếu Thomas Jefferson khát khao quyền lực hơn là công lý, nếu
James Madison tham vọng độc tôn cai trị hơn là tự do. Chính niềm yêu mến
các giá trị công lý, tự do, và tinh thần công đã tạo nên một nền tảng
cho sự thịnh vượng và bền vững của các nền cộng hòa. Thể chế nào rồi
cũng suy tàn khi con người không còn thiết tha gì với những giá trị ấy,
như đã từng xảy ra với nền cộng hòa La Mã.
Nếu chúng ta có đang thờ ơ với các giá
trị cộng hòa như những công dân cuối cùng của nền cộng hòa La Mã, thì có
lẽ cần phải biết ơn người dân Đồng Tâm đang thay ta nỗ lực gìn giữ
chúng. Có thể xác quyết một điều rằng họ đã hành động như những công dân
cộng hòa thực thụ. Và như thế, họ xứng đáng được tôn vinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét