Image caption Các binh sỹ cảnh sát rời khỏi Đồng Tâm sau thời
gian bị người dân địa phương nhốt giữ trong vụ việc tranh chấp giữa người dân
và chính quyền gây xôn xao dư luận.STR/AFP/Getty
Nhìn lại vụ việc ở Đồng Tâm, trước hết về nguồn gốc và diễn
biến tranh chấp đất đai, có thể thấy năm 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ
Mười đã ra quyết định lấy 208 ha đất thuộc tỉnh Hà Sơn Bình (nay là thành phố
Hà Nội) trong đó có 47,36 ha đất nông nghiệp của xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức giao
cho Bộ Quốc Phòng để thực hiện dự án sân bay Miếu Môn.
Tuy nhiên dự án này đã không được thực hiện và đây là lý do
người dân Đồng Tâm lấy lại đất để canh tác. Năm 2014, UBND thành phố Hà Nội ra
quyết định giao 236,7 ha đất cho Bộ Quốc Phòng với lý do đây là diện tích thuộc
dự án sân bay Miếu Môn. Diện tích 28,7 ha tăng thêm vẫn thuộc đất nông nghiệp
xã Đồng Tâm càng khiến người dân nơi đây bức xúc, cho rằng đây là một sự tham
nhũng đất đai 'trắng trợn' của UBND thành phố Hà Nội. Từ đó đến nay, căn cứ vào
Luật khiếu nại, người dân Đồng Tâm đã liên tục khiếu nại với chính quyền các cấp
để bảo vệ quyền sử dụng đất của họ đồng thời chống lại việc cưỡng chế thu hồi đất.
Tiếp theo về diễn biến, cách đây hai tháng, ngày 30/3/2017,
Công an thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án "gây rối trật tự
công cộng" theo điều 245, Cục Điều tra hình sự (Bộ Quốc phòng) ra quyết định
khởi tố vụ án "chống người thi hành công vụ" theo điều 257 Bộ Luật
Hình sự nhằm vào người dân Đồng Tâm.
Ngày 15/4, Công an thành phố Hà Nội đã bắt bốn người dân Đồng
Tâm trong đó có cụ Lê Đình Kình, 83 tuổi, về "Tội gây rối trật tự công cộng"
theo Điều 245 Bộ Luật Hình sự. Ngay sau đó, người dân Đồng Tâm đã bắt giữ 38
người gồm hàng chục cảnh sát cơ động và một số cán bộ thuộc các cơ quan Nhà nước
khác tham gia vào việc bắt bốn người dân nói trên để phản đối vụ bắt giữ này.
Những ngày sau đó, người dân nơi đây đã thả một số cảnh sát cơ động và một số cán
bộ khác.
Ngày 22/4, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn
Đức Chung, đã có cuộc đối thoại tại chỗ với người dân Đồng Tâm để họ thả nốt 19
cảnh sát cơ động còn bị bắt giữ. Kết thúc đối thoại, người đứng đầu hành pháp
thành phố Hà Nội đã ký Bản cam kết với nội dung sau đây.
"Tôi, Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội
xin cam kết như sau: 1- Trực tiếp kiểm tra đoàn thanh tra, chỉ đạo sát sao làm
đúng sự thực khách quan và đúng pháp luật. Khu vực đất Đồng Tâm rõ ràng đâu là
đất quốc phòng, đâu là đất nông nghiệp. Không mập mờ. Đảm bảo đúng quyền lợi
cho nhân dân Đồng Tâm theo quy định của pháp luật. 2- Không truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với Toàn thể Nhân dân xã Đồng Tâm. 3- Chỉ đạo điều tra xác minh việc
bắt và gây thương tích cho Cụ Lê Đình Kình, xử lý nghiêm theo quy định của pháp
luật".
Ngay sau khi Bản cam kết này được công bố, người dân Đồng
Tâm đã thả 19 cảnh sát cơ động còn lại.
Về thẩm quyền không truy cứu trách nhiệm hình sự, trước hết
cần khẳng định rằng sở dĩ có cam kết của người đứng đầu thành phố Hà Nội về việc
"không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Toàn thể Nhân dân xã Đồng
Tâm" là vì người dân Đồng Tâm được làm cho tin rằng việc họ bắt giữ cảnh
sát cơ động và một số cán bộ thuộc các cơ quan Nhà nước khác là phạm tội. Thực
vậy, bên cạnh cơ quan công quyền, nhiều luật sư cả quyết rằng việc người dân Đồng
Tâm bắt giữ mấy chục cảnh sát cơ động và một số cán bộ thuộc các cơ quan Nhà nước
khác là hành vi "bắt làm con tin", là phạm "Tội chống người thi
hành công vụ" quy định tại Điều 257 Bộ Luật hình sự, do đó, cần phải truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với những người dân này. Vì thế, người dân Đồng Tâm
khẳng định, nếu chính quyền khởi tố hình sự họ thì họ sẽ chống lại dù có phải đổ
máu.
Nếu như Điều 1 và Điều 3 của Bản cam kết nhận được sự đồng
thuận tuyệt đối của dư luận xã hội thì Điều 2 lại gây ra bão về tính pháp lý của
nó. Tựu trung có hai thắc mắc: thứ nhất, Chủ tịch Chung có quyền cam kết không
truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Thứ hai, nếu Chủ tịch Chung có quyền
này thì liệu không truy cứu trách nhiệm hình sự "toàn thể" có để ngỏ
khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự "một số người"?
Có thể giải đáp ngay thắc mắc thú hai, là sẽ không có việc
truy cứu trách nhiệm hình sự một số người dân Đồng Tâm. Thực vậy, "toàn thể"
là tất cả cá nhân trong một tập thể hay cộng đồng. Nếu loại trừ một số cá nhân
thì "toàn thể" không có nghĩa.
Không ít người, cho rằng Chủ tịch Chung, đại diện cơ quan
hành pháp không có quyền đưa ra cam kết như vậy vì thẩm quyền không truy cứu
trách nhiệm hình sự thuộc về cơ quan tư pháp hay các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vẫn theo ý kiến này, trong trường hợp ông Chung thực hiện được lời cam kết của
mình, sự độc lập mang tính nguyên tắc của cơ quan tư pháp sẽ bị phá vỡ trọn vẹn,
cơ quan tư pháp lộ rõ chỉ là công cụ của cơ quan hành pháp mà thôi.
Trước hết, nếu căn cứ vào Bộ Luật Tố tụng hình sự thì đúng
là Chủ tịch Chung không có thẩm quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình
sự. Bộ Luật này quy định chỉ Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát mới có quyền ra
quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Tuy
nhiên theo Khoản 1 Điều 43 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định Chủ tịch
UBND thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ và quyền hạn "bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội" thì Chủ tịch Chung hoàn toàn có quyền đưa ra cam kết
nói trên. Thực vậy, tháo gỡ mọi điểm nóng xã hội có thể dẫn tới bạo động là ưu
tiên hàng đầu không chỉ đối với chính quyền địa phương mà còn đối với cả chính
quyền trung ương.
Do đó, người viết bài này khẳng định người đứng đầu cơ quan
hành pháp thành phố Hà Nội hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan tư pháp, cụ thể
là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thành phố cũng như Cục Điều tra hình sự Bộ
Quốc phòng và Viện kiểm sát quân sự trung ương không khởi tố bị can hoặc hủy bỏ
quyết định khởi tố bị can nếu có căn cứ cho rằng việc miễn truy cứu trách nhiệm
hình sự cho ai đó sẽ "bảo đảm trật tự, an toàn xã hội" trên địa bàn
thành phố.
Tội chống người thi hành công vụ?
Về vấn đề thế nào là tội chống người thi hành công vụ, ủng hộ
cam kết của Chủ tịch Chung về việc không truy cứu trách nhiệm hình sự người dân
Đồng Tâm, nhiều người, trong đó có nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội Nguyễn
Sĩ Dũng, nhấn mạnh đến việc người dân nơi đây đã hành xử theo Công lý (Justice)
chứ không hành xử theo Luật (law) trong khi Công lý là mục tiêu cuối cùng mà xã
hội hướng tới.
Cũng ủng hộ cam kết của Chủ tịch Chung, Luật sư Trần Thu Nam
đặt vấn đề theo hướng khác. Ông nói: "Để giữ được tính tôn nghiêm của pháp
luật, vừa giữ được lời hứa của người lãnh đạo trước người dân Đồng Tâm, khi xử
lý vụ việc này cơ quan chức năng có thể khởi tố, sau đó vận dụng Khoản 1 điều
25 Bộ luật hình sự để miễn truy trách nhiệm hình sự cho họ". Điều luật này
quy định " Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành
điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội
hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa".
Cả hai luồng ý kiến trên đều có chung một điểm là người dân
Đồng Tâm đã phạm "Tội chống người thi hành công vụ" cho dù đề xuất xử
lý hình sự có khác nhau.
Mặc dầu vậy, căn cứ Khoản 2 Điều 107 Bộ Luật Tố tụng hình sự
theo đó "không được khởi tố vụ án hình sự khi hành vi không cấu thành tội
phạm", người viết bài này cho rằng phải xác định trên cơ sở pháp luật việc
người dân Đồng Tâm bắt giữ cảnh sát cơ động có hay không cấu thành "Tội chống
người thi hành công vụ" cái đã. Chỉ khi nào xác định được những người dân
này có hành vi phạm tội thì lúc đó mới có thể đặt vấn đề nên xử lý hình sự họ
như thế nào.
Để xác định việc người dân Đồng Tâm bắt giữ 38 cảnh sát cơ động
và cán bộ thuộc các cơ quan Nhà nước khác có hay không cấu thành "Tội chống
người thi hành công vụ", không thể không xác định "công vụ" và
tiếp đó "người thi hành công vụ" là gì.
Một biểu ngữ gắn trên tường bên trong xã Đồng
Tâm cho hay người dân địa phương 'không chống đối nhà nước'.Bản quyền hình ảnh STR/AFP/Getty
Điều 2 Hiến pháp Việt Nam quy định "1. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".
Như vậy, "công vụ" của Nhà nước là phục vụ người dân hay bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là "công vụ" quan trọng nhất
của Nhà nước.
Điều 3 Luật Cán bộ, công chức quy định "các nguyên tắc
trong thi hành công vụ" như sau: "1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
2. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân".
Chiểu theo các quy định của Hiến pháp và Luật Cán bộ, công
chức, người nào nhân danh Nhà nước xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người
dân thì đó là làm trái công vụ. Không những thế, nếu gây thiệt hại cho người
dân, người làm trái công vụ còn bị xử lý hình sự theo Điều 281 Bộ Luật Hình sự
quy định "Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ"
(Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm
trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù).
Mặc dầu vậy, có mắc míu là người thi hành quyết định trái
pháp luật, tức trái công vụ, có phải là người thi hành công vụ hay không. Có ý
kiến cho rằng trường hợp này không phải là người thi hành công vụ.
Ý kiến trên thoạt nghe hợp lý vì người thi hành quyết định
trái công vụ không thể là người thi hành công vụ, tựa như người thi hành quyết
định sai không thể là người làm điều đúng. Tuy nhiên xét kỹ lại thì ý kiến này
không chính xác vì đã đánh đồng chức năng với nhiệm vụ của người thi hành công
vụ. Thực vậy, chức năng là thi hành quyết định của cấp trên. Nhiệm vụ là thực
hiện một quyết định cụ thể trong khi thực hiện chức năng. Như vậy, người thi
hành một nhiệm vụ trái pháp luật hay trái công vụ vẫn là người thi hành công vụ
vì chức năng của người này là thi hành quyết đinh của cấp trên.
Điểm b Khoản 2 Điều 5 Nghị định về "Các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ" "cấm
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền yêu cầu người thi hành công vụ thực
hiện nhiệm vụ trái quy định của pháp luật". Như vậy, thực hiện nhiệm vụ
trái pháp luật là hành vi trái pháp luật.
Người thi hành công vụ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
trái pháp luật gây thiệt hại cho người dân thì phải chịu trách nhiệm hình sự về
thiệt hại đã gây ra. Nếu người này biết rõ mình đang thực hiện nhiệm vụ trái
pháp luật thì tùy theo trường hợp cụ thể mà bị truy cứu về "Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác" quy định tại Điều
104, "Tội giết người" quy định tại Điều 93, "Tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản" quy định tại Điều 143.... Bộ Luật Hình sự.
Ngược lại, nếu người thi hành công vụ không biết nhiệm vụ được
giao là trái pháp luật mà gây thiệt hại cho người dân thì vẫn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nhưng đươc áp dụng tình tiết "vô ý phạm tội" quy định tại
Khoản 2 Điều 10 Bộ Luật Hình sự (Người phạm tội không thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể
thấy trước hậu quả đó).
Tóm lại, người dân hay bất cứ ai khác có quyền chống lại người
thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ trái pháp luật. Nói cách khác, phạm "Tội
chống người thi hành công vụ" chỉ xảy ra trong trường hợp người thi hành
công vụ thực hiện nhiệm vụ không trái pháp luật.
Vậy câu hỏi được đặt ra là trong trường hợp người dân Đồng
Tâm, liệu họ có phạm "Tội chống người thi hành công vụ" hay là không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét