Bạo lực là một trong hai phương pháp
hành xử xưa nay của chế độ cộng sản (phương pháp kia là lừa gạt). Điều
này chẳng ai không thấy. Để mặc cho nó một ý nghĩa, người cộng sản gọi
nó là “bạo lực cách mạng” với hai khía cạnh: bạo lực hành chánh và bạo
lực vũ khí. Bạo lực vũ khí chủ yếu dùng phương tiện công an, bạo lực
hành chánh chủ yếu dùng phương tiện pháp luật. Công an để đàn áp cuộc
sống xã hội và pháp luật để bức bách tâm trí con người.
Đứng trước nguy cơ bị nhân dân lật đổ, một nguy cơ ngày càng lớn lao do
bao sai lầm, tội ác và thất bại tích tụ từ hơn 70 năm qua và ngày càng
nhiều, đảng càng lúc càng khiến lực lượng công an mạnh tay với nhân dân
bằng đủ mọi kiểu hành xử bạo tàn và càng lúc càng khiến lực lượng lập
pháp mạnh tay với nhân dân bằng đủ mọi thứ luật lệ ngang ngược.
Ngày 18 tháng 11 năm 2016, Đảng hội dưới cái tên Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 02, đã thông qua Luật Tín
ngưỡng, Tôn giáo, và Luật này sẽ có hiệu lực thi hành kể từ 01 tháng 01
năm 2018. Nó đã bị nhiều công dân lẫn tổ chức xã hội phê phán hay từ
khước (quyết liệt nhất là Hội đồng Liên tôn qua Kháng thư ngày
20-10-2016). Mới đây, hôm 01-06-2017, Hội đồng Giám mục, một định chế
quan trọng của Giáo hội Công giáo Việt Nam, qua Nhận định về Luật Tín
ngưỡng Tôn giáo gởi cho Quốc hội, một lần nữa cho thấy bạo lực hành
chánh của Cộng sản đã được vận dụng như thế nào đối với lực lượng tín đồ
đông đảo.
Sau khi điểm qua vài chi tiết, Nhận định của Hội đồng Giám mục đã cho
thấy Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo thực chất là nỗ lực hợp pháp hóa và củng
cố hóa cơ chế xin-cho hết sức bất công, phi lý và ngang ngược của một
nhà cầm quyền luôn tuyên bố là “của dân, do dân, vì dân”. Việc tráo đổi
ngôn từ (từ “xin phép” và “cho phép” sang “đăng ký, thông báo, đề nghị”)
rốt cục vẫn không che giấu được ý đồ làm cho cơ chế xin-cho càng thêm
vững mạnh, thậm chí hơn cả Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo 2004. Các vị
Giám mục đã nói thẳng: “Cơ chế này cho thấy tự do tín ngưỡng tôn giáo
không thật sự được coi là quyền của con người nhưng chỉ là ân huệ cần
phải xin và được ban phát. Chính cơ chế đó hợp pháp hóa sự can thiệp của
chính quyền vào sinh hoạt nội bộ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động
tôn giáo” (Nhận định, số 3). Mục đích là làm cho mọi Giáo hội không
ngừng lệ thuộc nhà cầm quyền, ngoan ngoãn để được ban ơn và cuối cùng
trở nên công cụ của chế độ hay chí ít cũng quên đi bản chất và sứ mạng
của mình.
Không dừng lại đó, Hội đồng Giám mục còn cho rằng Luật Tín ngưỡng Tôn
giáo là biểu hiệu của não trạng thâm căn cố đế, thái độ trước sau như
một của Cộng sản là luôn xem mọi tôn giáo và tổ chức tôn giáo như những
lực lượng đối kháng, nghĩa là như những kẻ thù không đội trời chung, vừa
từ quan điểm chính trị độc tài toàn trị vừa từ quan điểm triết lý duy
vật vô thần.
Chính vì thế, nhà cầm quyền “đã tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của và
nhân lực để theo dõi, dò xét, kiểm soát mọi hoạt động tôn giáo, đồng
thời sử dụng các tổ chức tôn giáo như công cụ của chế độ”; trình bày các Tôn giáo tại nhiều cơ sở đào tạo cán bộ và sinh viên “với những thành kiến thù nghịch, tạo nên nhận định sai lầm và hình ảnh biến dạng về Giáo hội Công giáo [lẫn các Giáo hội khác] nơi thế hệ trẻ”; đã không đánh giá đúng mức, thậm chí ngăn cản “những hoạt động của các tôn giáo trong lĩnh vực từ thiện, y tế và giáo dục”;
và nay, với những điệp khúc đậm màu chính trị và những từ ngữ mơ hồ cố ý
của Luật Tín ngưỡng tôn giáo, nhà cầm quyền sẵn sàng quy kết trách
nhiệm và lên án bất công các tổ chức lẫn nhân sự tôn giáo như họ đã và
đang làm. “Cách nhìn và cách hành xử như vậy có nguy cơ làm mất bản
sắc đích thực của các tôn giáo, gây chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo
cũng như giữa các tín đồ và người ngoài tôn giáo” (Nhận định, số 4).
Thời gian gần đây, tại Quốc hội, nhân cuộc thảo luận về việc sửa đổi Bộ
luật Hình sự 2015, hai đại biểu có nguồn gốc công an là Nguyễn Thị Xuân,
Đại tá, Phó Giám đốc công an tỉnh Đak Lắc, và Nguyễn Thị Thủy, công tác
tại Viện Kiểm sát Tối cao, đại biểu tỉnh Bắc Kạn, đã gây sóng gió khi
ủng hộ dự thảo tại Điều 19 Bộ luật Hình sự là "Luật sư phải tố giác thân chủ khi họ biết thân chủ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia…",
lấy lý do: xâm phạm an ninh quốc gia là tội bất trung, đại nghịch mà từ
xưa cũng đã trừng phạt nặng nề. Nhưng ai cũng biết khái niệm “xâm phạm
an ninh quốc gia” bị người cộng sản -do não trạng bảo vệ quyền lực độc
tài của mình- hiểu rất rộng, không những là chuyện phản bội đất nước,
làm hại Tổ quốc, giết hại Đồng bào mà còn là chuyện động tới đảng và chế
độ dưới mọi hình thức, dù chỉ là thành lập một chính đảng hay một tổ
chức xã hội dân sự đấu tranh bất bạo động, dù chỉ là phê bình chính sách
sai lầm của đảng, phản đối chủ trương tai hại của nhà nước trên ngôn từ
mà thôi. Đàn áp dân biểu tình khiếu kiện chính đáng, chặn đường các nhà
dân chủ tranh đấu ôn hòa, bắt trước công dân yêu nước để phòng hậu họa,
nhà cầm quyền đều lấy lý do “an ninh quốc gia”….
Nếu đọc qua BLHS 2015, người ta thấy đã có quy định về đồng phạm ở điều
17 và và che giấu tội phạm ở điều 18. Nhưng nay, với điều 19 (Tội không
tố giác tội phạm), Cộng sản làm cho luật thêm khắt khe và ngang ngược.
Khắt khe và ngang ngược ở chỗ Điều 19 Khoản 1 quy định bất kỳ ai nếu
biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện mà không tố giác, thì phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm. Khoản 2 quy
định ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của
người phạm tội phải tố giác các tội đặc biệt nghiêm trọng và các tội xâm
phạm an ninh quốc gia. Và quan trọng nhất, đang gây tranh cãi nhất, là
Khoản 3 quy định Luật sư phải tố giác các tội đặc biệt nghiêm trọng và
các tội xâm phạm an ninh quốc gia của thân chủ mà họ biết được khi thực
hiện nghĩa vụ bào chữa. Cả ba khoản này tần tật công an hóa toàn thể xã
hội!
Ai cũng biết việc không tố cáo tội phạm hoàn toàn khác với việc giúp đỡ,
che giấu người phạm tội. Vì người biết về hành vi phạm tội của một kẻ
khác chẳng đồng nghĩa với việc đương sự tham gia và giúp đỡ tội ác được
thực hiện hay cố ý che giấu nó. Mọi pháp chế văn minh trên thế giới đều
công nhận điều này, nên chẳng có việc quy lỗi kẻ không tố giác tội phạm!
Do đó, nhiều đại biểu hiểu biết pháp luật và thành tâm thiện chí như Đỗ
Ngọc Thịnh, Nguyễn Văn Chiến, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư
VN, Trương Trọng Nghĩa của Sài Gòn đều đã nhấn mạnh: Khoản 3 Điều 19 sẽ
gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc của các Luật sư, có thể
khiến họ không thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân trong các vụ
kiện. Quan điểm này dựa trên hai nguyên tắc: Một là nghĩa vụ im lặng của
Luật sư xuất phát từ quyền im lặng của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo
vốn dĩ không phải khai báo bất kỳ điều gì về bản thân, bởi lẽ trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc cơ quan điều tra, nên khi họ cần Luật
sư, thuê mướn luật sư, là để bảo vệ quyền của mình, chứ không phải để
Luật sư đem thông tin đi nói cho người khác biết. Hai là mối quan hệ
giữa Luật sư và thân chủ được bảo vệ bởi đặc quyền về bảo mật thông tin,
bất kể là vụ án hình sự, dân sự hay chính trị. Đây cũng là vấn đề
nguyên tắc đạo đức của nghề Luật sư, được các Luật sư đoàn trên thế giới
quy định. Luật sư và thân chủ cần có đặc quyền về bảo mật thông tin, vì
đó chính là điều kiện tối cần thiết để thiết lập sự tin tưởng tuyệt đối
giữa họ.
Ngoài ra, quy định như khoản 3 Điều 19 Dự thảo BLHS 2015 sẽ biến luật sư
trở thành tội phạm nếu tham gia bào chữa cho các tội danh liên quan đến
xâm phạm an ninh quốc gia (nay được khoác lên hầu hết cho các vụ án
chính trị) và các tội đặc biệt nghiêm trọng khác. Luật sư sẽ trở thành
nạn nhân của điều luật kinh hoàng man rợ, phản khoa học pháp lý, đi
ngược lại văn minh nhân loại. Từ chỗ đang thực thi nhiệm vụ bào chữa cho
thân chủ theo đúng quy định của pháp luật, bỗng dưng luật sư lại trở
thành kẻ bị tình nghi phạm tội. Chỉ có cộng sản mới nghĩ ra điều này!
Để củng cố thêm cho bạo lực hành chánh, “chuyên chính” pháp luật, sáng
ngày 24/5, tại kỳ họp Quốc hội khóa 14, nữ đại tá công an Nguyễn thị
Xuân nói trên lại muốn việc bôi nhọ, nói xấu lãnh đạo đảng, quan chức
nhà nước CS phải bị xử lý hình sự, nghĩa là phải ngồi tù. Tay nữ công an
này cho rằng, trong điều 155 về tội làm nhục người khác và điều 156 về
tội vu khống cần phải bổ sung thêm việc xuyên tạc, bịa đặt, lan truyền
những nội dung sai sự thật nhằm bôi nhọ, gây mất uy tín lãnh đạo đảng,
chính quyền. Theo bà ta, việc nói xấu, bôi nhọ gây mất uy tín thường
diễn ra vào những kỳ đại hội đảng CS, bầu cử Quốc hội. Việc tung ra
những tin tức như thế sẽ gây hoang mang, giảm sút “niềm tin của nhân
dân” đối với các lãnh đạo mà đảng đã chọn. Quả là trong 2 kỳ đại hội
đảng gần đây, một số tờ như: Quan làm báo, Chân dung quyền lực, Tư Sang
nham hiểm… đã tung ra rất nhiều thông tin động trời mà ngay các tờ báo
chính thống không thể có được. Công luận đều cho rằng đó là chuyện các
phe cánh trong nội bộ đảng đánh phá nhau. Nhưng dẫu không có những tờ
báo ấy, toàn dân cũng thấy giới lãnh đạo đảng, từ Hồ Chí Minh tới hôm
nay, tất cả đều đã chung tay vào tội ác giết hại đồng bào, tàn phá đất
nước, làm đạo đức văn hóa suy đồi, làm quốc gia lụn bại và bây giờ làm
cho Tổ quốc ngày càng lâm nguy trước kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Nên
trúc Trường Sơn không ghi hết tội, nước Biển Đông chẳng rửa sạch mùi và
bao nhiêu nhọ nồi cũng chẳng đủ! Nhưng vấn đề là ở chỗ, như TS Nguyễn
Quang A nói, “Luật pháp phải bình đẳng. Không có chuyện phân biệt
lãnh đạo cấp cao của đảng, của nhà nước với một người dân bình thường.
Trước pháp luật thì một người lao động bình thường, một bà buôn thúng
bán mẹt với ông TBT đảng hay Chủ tịch nước đều ngang nhau”.
Công luận đang phẫn nộ vì công an TP Hà Nội vào hôm 13/6 đã ra quyết
định khởi tố điều tra hình sự vụ việc xảy ra tại thôn Hoành, xã Đồng
Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội ngày 15/4. Báo chí đã đồng loạt tường thuật
việc khởi tố vụ án "nhằm làm rõ các hành vi bắt giữ người trái pháp luật
theo Điều 123 và hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo
Điều 143 BLHS", cho dù chủ tịch TP Nguyễn Đức Chung đã long trọng cam
kết không truy tố dân bằng thủ bút. Lại một trò bạo hành luật pháp mới
của Ba Đình, xuất phát từ thói lật lọng và lừa đảo là bản chất của mọi
chế độ CS từ khi chúng đoạt được quyền trên toàn thế giới vào năm 1917 ở
Nga và sau đó lan rộng khắp hoàn cầu. Với vụ việc mới này, CS thêm lộ
nguyên hình là một băng đảng chủ trương lấy cướp bóc làm mục đích sinh
tồn, lấy dối trá và bạo lực làm phương tiện hành xử. Nhưng nó có nhờ như
thế mà tồn tại mãi được chăng?
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 269 (15-06-2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét