Nguồn: Alonzo L. Hamby, Outline
of U.S. History (New York: Nova Publishers, 2007), Ch. 9.
![History_Mankind_American_Railroad_SF_still_624x352](https://nghiencuuquocte.net/wp-content/uploads/2014/11/History_Mankind_American_Railroad_SF_still_624x352.jpg)
“Một nền dân chủ vĩ đại sẽ không còn là vĩ đại và dân chủ nếu nó không tiến bộ”
– Cựu Tổng thống Theodore
Roosevelt, vào khoảng năm 1910.
Khó khăn trong nông nghiệp và sự
ra đời của chủ nghĩa dân túy
Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể,
nông dân Mỹ vào cuối thế kỷ XIX đã phải trải qua nhiều thời kỳ đầy gian khó.
Các tiến bộ về cơ khí đã làm tăng sản lượng trên mỗi hecta đất trồng. Diện tích
canh tác tăng rất nhanh vào nửa sau thế kỷ XIX do các tuyến đường sắt và các cuộc
khai phá của người da đỏ ở vùng đồng bằng đã dần tạo ra các miền đất mới cho những
người định cư phương Tây. Tương tự, diện tích đất trồng cũng tăng lên ở các quốc
gia khác như Canada, Argentina và Australia, làm trầm trọng hơn những khó khăn
trên thị trường thế giới, nơi tiêu thụ phần lớn các loại nông sản của Mỹ. Khắp
mọi nơi, lượng cung quá lớn đã đẩy giá nông sản xuống thấp.
Nông dân tại vùng Trung Tây ngày
càng tỏ ý phản đối mức cước phí vận chuyển bằng đường sắt mà họ cho là quá đắt
để chuyên chở hàng hóa của họ đến nơi tiêu thụ. Họ cho rằng các loại thuế bảo hộ,
trợ cấp cho các doanh nghiệp lớn đã khiến cho giá cả trang thiết bị dùng cho
nông nghiệp ngày càng tăng. Phải chịu áp lực đồng thời do chi phí cao và giá
nông phẩm trên thị trường lại quá rẻ, nông dân rất bất bình đối với các gánh nặng
nợ nần ngày càng chồng chất và đối với các ngân hàng đang tạm giữ tài sản thế
chấp của họ. Ngay cả điều kiện thời tiết cũng rất khắc nghiệt. Trong những năm
cuối thế kỷ XIX, hạn hán đã tàn phá vùng Great Plains (Đồng bằng Lớn) ở phía
Tây và khiến hàng nghìn nông dân ở đây bị phá sản.
Tại miền Nam, chế độ nô lệ chấm dứt
đã đem lại nhiều đổi thay lớn. Nhiều đất nông nghiệp nay được canh tác bởi các
lĩnh canh, tức là những người thuê đất để làm ruộng và phải trả cho chủ đất một
nửa nông phẩm thu hoạch được thay cho tiền thuê đất, tiền hạt giống và tiền chi
trả cho các trang thiết bị cần thiết. Ước tính khoảng 80% nông dân Mỹ da đen và
40% nông dân Mỹ da trắng ở miền Nam đã làm việc theo hệ thống bóc lột này. Đa
phần trong số họ đã không thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần, và hy vọng duy
nhất của họ là tăng cường canh tác để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó. Điều này đã
khiến bông và thuốc lá được sản xuất quá nhiều, khiến cho giá giảm và khiến đất
đai tiếp tục bị suy kiệt.
Nỗ lực có tổ chức đầu tiên nhằm
giải quyết các vấn đề về nông nghiệp được thực hiện bởi giới chủ vùng
Husbandry, một nhóm các nông dân nổi tiếng trong phong trào Grange. Được khởi
xướng bởi các viên chức Bộ Nông nghiệp Mỹ năm 1867, ban đầu, phong trào Grange
tập trung vào các hoạt động xã hội chống lại sự cô lập đối với phần lớn các gia
đình nông dân Mỹ. Sự tham gia của phụ nữ vào phong trào này rất được ủng hộ. Bộc
phát từ cuộc khủng hoảng năm 1873, phong trào Grange đã nhanh chóng lớn mạnh,
có tới 20.000 tăng hội và 1,5 triệu thành viên.
Những người theo phong trào
Grange đã thành lập các hệ thống quảng cáo, bán hàng, các khu vực sản xuất, các
nhà máy, các hợp tác xã riêng của họ, nhưng đa phần cuối cùng hầu hết đều đã thất
bại. Phong trào này cũng đã đạt được một số thành công về chính trị. Trong những
năm 1870, một số bang đã thông qua Đạo luật Grange nhằm hạn chế các mức cước
phí chuyên chở bằng xe lửa và các mức phí lưu kho.
Năm 1880, phong trào Grange bước
vào giai đoạn suy thoái và được thay thế bằng Liên minh Nông dân. Liên minh này
có nhiều hoạt động tương tự như phong trào Grange nhưng công khai hơn về mặt
chính trị. Năm 1890, Liên minh này – ban đầu là các tổ chức tự trị của tiểu
bang – đã có tới 1,5 triệu thành viên từ New York đến California. Cùng lúc đó,
một nhóm người Mỹ gốc Phi – Liên minh Nông dân da màu Quốc gia – cũng đã có tới
hơn một triệu thành viên. Là liên minh giữa hai vùng Nam Bắc rộng lớn, các liên
minh này đã xây dựng các chương trình kinh tế dành cho nông dân Mỹ nhằm bảo vệ
họ chống lại những luật lệ phân biệt tầng lớp và việc xâm phạm vốn tập trung.
Đến năm 1890, mức độ suy kiệt đất
đai đã trở nên nghiêm trọng nhất từ trước đến nay sau nhiều năm canh tác quá mức
để đối phó với thuế McKinley. Phối hợp với các đảng viên Dân chủ tại miền Nam
và các đảng thứ ba nhỏ lẻ ở miền Tây, khối Liên minh Nông dân đã vận động mạnh
mẽ để tăng cường quyền lực chính trị. Một Đảng chính trị thứ ba – Đảng Nhân dân
(còn gọi là Đảng Dân túy) – đã nổi lên. Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ từ trước
tới nay, chưa có cơn sốt chính trị nào tương tự như cơn sốt ủng hộ Đảng Dân
túy. Cơn sốt này đã lan truyền khắp các thảo nguyên và các vùng trồng bông. Cuộc
tuyển cử năm 1890 đã mang lại quyền lực cho Đảng này tại 12 bang phía Nam và
phía Tây, đồng thời đã đưa các nghị sỹ và các đại biểu của đảng Dân túy vào Quốc
hội.
Đại hội đầu tiên của Đảng Dân túy
đã diễn ra vào năm 1892. Các đoàn đại biểu của nông dân, người lao động và các
tổ chức cải cách đã nhóm họp tại Omaha, bang Nebraska nhằm tác động tới hệ thống
chính trị của Hoa Kỳ – một hệ thống mà họ đánh giá là đang bị tham nhũng nghiêm
trọng do các tập đoàn độc quyền về tài chính và công nghiệp. Tuyên bố của Đảng
nêu rõ:
Chúng ta gặp gỡ nhau khi đất nước
đang phải chứng kiến sự suy thoái về đạo đức, chính trị và vật chất. Tham nhũng
thống trị các hòm phiếu, các cơ quan lập pháp, Quốc hội, và động chạm tới cả
các quan chức tại tòa án… Cùng sản sinh ra từ sự bất công của chính phủ, chúng
ta đã chia thành hai giai cấp lớn – giai cấp nghèo khổ và những nhà triệu phú.
Tuyên bố của họ kêu gọi quốc hữu
hóa đường sắt, mức thuế quan thấp, các khoản bảo đảm cho vay bằng các nông phẩm
không hư hại trong các kho chứa thuộc quyền sở hữu của nhà nước; và quan trọng
hơn cả là vấn đề lạm phát tiền tệ thông qua việc mua vào của Kho bạc Nhà nước,
và cuối cùng là tỷ lệ đổi tiền xu bạc theo tỷ lệ truyền thống là 16 ounce bạc
tương đương với một ounce vàng.
Phái Dân túy đã thể hiện sức mạnh
của họ ở miền Tây và miền Nam; ứng cử viên chức tổng thống của họ đã đạt được
hơn một triệu phiếu bầu. Nhưng vấn đề tiền tệ đã mau chóng làm lu mờ các vấn đề
khác. Các phát ngôn viên nông nghiệp ở miền Tây và miền Nam đã thuyết phục dân
chúng bằng lập luận cho rằng mọi khó khăn của họ bắt nguồn từ việc thiếu tiền
trong lưu thông, bởi vậy, việc gia tăng lượng cung tiền có thể sẽ gián tiếp làm
tăng giá nông phẩm và tăng lương trong các ngành công nghiệp, nhờ đó, các khoản
nợ sẽ được trả bằng đồng tiền bị lạm phát. Tuy nhiên, các nhóm bảo thủ và các
nhà tài chính đã đáp trả rằng tỷ lệ quy đổi 1:16 đã khiến giá đồng bạc tăng gần
gấp đôi so với giá cả thị trường. Một chính sách mua vào không hạn chế có thể
khiến Cục Dự trữ Liên bang mất hết lượng dự trữ bằng vàng, khiến đồng đô-la mất
giá nghiêm trọng và tàn phá sức mua của các tầng lớp lao động và trung lưu. Họ
cho rằng chỉ có chế độ bản vị vàng mới đem lại sự ổn định.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm
1893 đã khiến các cuộc tranh luận này thêm phần căng thẳng. Các ngân hàng vỡ nợ
liên tục ở miền Nam và miền Trung Tây. Nạn thất nghiệp tăng vọt và giá nông sản
tụt giảm thảm hại. Cuộc khủng hoảng này và việc Tổng thống Grover Cleveland nhất
quyết bảo vệ chế độ bản vị vàng đã khiến Đảng Dân chủ bị chia rẽ nghiêm trọng.
Các đảng viên Đảng Dân chủ từng ủng hộ đồng bạc đã gia nhập Đảng Dân túy khi cuộc
bầu cử tổng thống năm 1896 đang đến gần.
Đại hội Đảng Dân chủ năm đó đã chứng
kiến một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ.
Khẩn thiết yêu cầu đại hội đừng đóng đinh nhân loại vào cây thập ác bằng vàng,
William Jennings Bryan, một đảng viên trẻ tuổi quê ở bang Nebraska đã giành được
vị trí ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ. Đảng Dân túy cũng ủng hộ Bryan
trong cuộc bầu cử này.
Trong các hoạt động tranh cử sau
đó, Bryan đã giành được sự ủng hộ ở các bang miền Nam và toàn bộ miền Tây.
Nhưng ông đã thất bại ở các khu vực đông dân cư hơn – vùng công nghiệp phía Bắc
và phía Đông. Cuối cùng, ông đã thất bại trước ứng cử viên Đảng Cộng hòa là William
McKinley.
Vào năm sau đó, nền tài chính Mỹ
bắt đầu được cải thiện, một phần là nhờ việc phát hiện ra vàng ở Alaska và vùng
Yukon. Điều đó đã tạo cơ sở để quan điểm bảo thủ về cung tiền tăng lên. Năm
1898, cuộc chiến Tây Ban Nha – Mỹ đã thu hút sự chú ý của dân chúng, khiến họ
không còn để ý đến các vấn đề của Đảng Dân túy nữa. Chủ nghĩa Dân túy và vấn đề
sử dụng đồng bạc đã tiêu vong. Tuy nhiên, nhiều ý tưởng cải cách khác của phong
trào này thì vẫn còn sống mãi.
Những cuộc đấu tranh của tầng lớp
lao động
Cuộc sống của người công nhân
công nghiệp Mỹ thế kỷ XIX rất cực khổ. Thậm chí ngay cả vào những thời kỳ thuận
lợi thì đồng lương của họ vẫn thấp, giờ làm việc kéo dài và các điều kiện lao động
rất khắc nghiệt. Chỉ có một số rất ít sự thịnh vượng từ sự phát triển của đất
nước là đến được với người lao động. Hơn nữa, phụ nữ và trẻ em chiếm tỷ lệ cao
trong lực lượng lao động ở một số ngành công nghiệp và họ thường chỉ được trả
lương rất thấp, bằng một phần nhỏ so với số tiền nam giới kiếm được. Những cuộc
khủng hoảng kinh tế thường xuyên đã tàn phá nước Mỹ, khiến đồng lương trả cho
công nhân ngày càng ít đi và làm gia tăng nạn thấp nghiệp.
Bên cạnh đó, những cải tiến công
nghệ làm tăng sản lượng quốc gia và tiếp tục làm giảm nhu cầu lao động tay nghề
cao. Tuy vậy, lực lượng lao động tay nghề thấp vẫn không ngừng tăng lên vì lượng
người nhập cư cao chưa từng thấy trước đây – từ năm 1880 đến năm 1910 đã có tới
18 triệu người tới Mỹ kiếm việc làm.
Trước năm 1874, khi bang
Massachussets thông qua đạo luật quốc gia đầu tiên nhằm hạn chế số giờ lao động
của phụ nữ và trẻ em ở nhà máy ở mức 10 tiếng một ngày, thì ở nước Mỹ, trước
đó, chưa thực sự có một đạo luật lao động nào tồn tại. MÃi đến thập niên 1930,
Chính phủ Liên bang mới thực sự vào cuộc. Trước đó, lĩnh vực lao động được giao
cho chính quyền các tiểu bang và địa phương, và hầu như không có cơ quan chính
quyền nào quan tâm đến nhu cầu của người lao động giống như họ đã quan tâm đến
các nhà tư bản công nghiệp giàu có.
Chủ nghĩa tư bản tự do đã thống trị
xã hội Mỹ trong nửa sau thế kỷ XIX, khuyến khích tập trung vốn và quyền lực vào
tay một số người được bộ máy tư pháp ủng hộ nhằm chống lại những ai dám thách
thức hệ thống. Trong hệ thống này, người ta chỉ tuân theo một học thuyết thống
trị của thời đại đó. Dựa vào sự hiểu biết đơn giản hóa của học thuyết Darwin,
nhiều nhà tư tưởng xã hội cho rằng sự tăng trưởng và công việc kinh doanh rộng
lớn của các doanh nghiệp nhỏ cùng với sự thịnh vượng của một số ít người bên cạnh
sự nghèo đói của nhiều người chỉ đơn giản là hệ quả sự tồn tại của những kẻ mạnh
nhất và là một sản phẩm phụ tất yếu của sự tiến bộ.
Người lao động Mỹ, đặc biệt là giới
lao động có tay nghề cao, có vẻ có cuộc sống ít nhất cũng ngang bằng với những
người lao động trong khu vực công nghiệp ở châu Âu. Tuy nhiên, chi phí xã hội lại
rất cao. Cho đến tận năm 1900, nước Mỹ vẫn có tỷ lệ tử vong liên quan tới việc
làm cao nhất trong số các nước công nghiệp trên thế giới. Phần lớn công nhân
công nghiệp thường phải làm việc 10 giờ một ngày (12 giờ trong ngành thép), tuy
vậy số tiền họ kiếm được còn thấp hơn cả mức lương tối thiểu để duy trì một cuộc
sống đạm bạc. Số lượng trẻ em tham gia lực lượng lao động đã tăng gấp đôi từ
năm 1870 đến năm 1900.
Nỗ lực quan trọng đầu tiên để tổ
chức các nhóm công nhân trên toàn quốc đã xuất hiện với sự ra đời của tổ chức Mệnh
lệnh Cao quý của các Hiệp sỹ Lao động năm 1869. Lúc đầu, tổ chức này là một hội
kín, không chính thức, do công nhân ngành dệt may ở Philadelphia thành lập và vận
động cho các chương trình hợp tác. Sau này, nó đã mở rộng cho mọi người dân lao
động tham gia, bao gồm cả những người da đen, phụ nữ và nông dân. Tổ chức này
phát triển chậm chạp cho đến khi các công nhân đường sắt đã chiến thắng trong
cuộc bãi công chống lại ông chủ đường sắt Jay Gould năm 1885. Chỉ trong vòng một
năm, tổ chức này đã có thêm 500.000 người lao động tham gia vào danh sách thành
viên. Tuy nhiên, do không thu hút được các tổ chức công đoàn và không duy trì
được những thành công của mình, tổ chức này đã sớm rơi vào thoái trào.
Vị trí của tổ chức này trong
phong trào lao động đã dần được thay thế bởi Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ (AFL). Tổ
chức AFL không mở rộng quy chế hội viên cho tất cả mọi người mà chỉ là một nhóm
các công đoàn của các công nhân có tay nghề, được lãnh đạo bởi một cựu viên chức
công đoàn xì gà – Samuel Gompers. Mục tiêu của tổ chức này là trong sạch, đơn
giản, và phi chính trị: đó là các mục tiêu tăng lương, giảm giờ làm và cải thiện
các điều kiện lao động. Tổ chức này đã hướng phong trào lao động khỏi những quan
điểm xã hội chủ nghĩa của phần lớn các phong trào lao động ở châu Âu.
Tuy vậy, cả trước và sau khi AFL
được thành lập, lịch sử lao động Hoa Kỳ vẫn là một lịch sử đầy xung đột. Trong
cuộc tổng bãi công của ngành đường sắt năm 1877, các công nhân đường sắt trên
khắp nước Mỹ đã tham gia đình công để phản đối việc cắt giảm 10% tiền lương trả
cho mỗi ngày lao động. Các nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc đình công đã dẫn đến các
cuộc nổi loạn và phá hủy quy mô lớn tại một số thành phố như: Baltimore bang
Maryland, Chicago bang Illinois, Pittsburgh bang Pennsylvania, Buffalo bang New
York và San Francisco thuộc bang California. Các đơn vị quân đội liên bang đã
được đưa đến một số khu vực trước khi cuộc bãi công chấm dứt.
Chín năm sau, trong biến cố xảy
ra tại quảng trường Haymarket, Chicago, một số người đã ném bom vào cảnh sát
đang sắp sửa can thiệp vào một cuộc tuần hành không được phép của chính phủ để ủng
hộ một cuộc bãi công đang diễn ra ở Công ty McCormick Harvester tại Chicago.
Trong cơn náo loạn, bảy cảnh sát và ít nhất bốn công nhân đã chết. Khoảng 60 cảnh
sát khác đã bị thương.
Năm 1892, tại các nhà máy thép
Carnegie ở Homestead, bang Pennsylvania, một nhóm gồm 300 thám tử của hãng
Pinkerton đã được công ty thuê để chấm dứt cuộc bãi công của các công nhân thuộc
Tổng Công ty Sắt, Thép và Thiếc. Các thám tử đã dùng súng bắn vào các công nhân
bãi công, nhưng cuối cùng họ đã thua cuộc. ội vệ binh quốc gia đã được điều đến
nhằm bảo vệ người lao động không thuộc công đoàn và cuộc bãi công đã bị đập
tan. Các công đoàn không được phép hoạt động trở lại cho tới tận năm 1937.
Năm 1894, việc cắt giảm lương tại
Công ty Ôtô Pullman Palace ở ngoại ô Chicago đã làm bùng lên một cuộc đình công
được sự ủng hộ của Công đoàn Đường sắt Mỹ và đã mau chóng làm tê liệt nhiều hệ
thống đường sắt trên cả nước. Do tình hình ngày càng trở nên xấu đi, Tổng Chưởng
lý Mỹ – Richars Olney – một cựu luật sư ngành đường sắt – đã đứng ra đại diện
cho hơn 3000 người trong nỗ lực nhằm khai thông trở lại các tuyến đường sắt. Tiếp
theo đó, Tòa án Liên bang đã ra lệnh cấm công đoàn can dự vào ngành đường sắt.
Khi cuộc nổi loạn xảy ra, Tổng thống Cleveland đã phái quân đội liên bang tới
và cuộc bãi công cuối cùng đã bị dập tắt.
Kiên cường nhất trong số các công
đoàn tổ chức bãi công là Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Quốc tế (IWW). Được
thành lập từ các tổ chức công đoàn đấu tranh đòi cải thiện điều kiện lao động
trong ngành công nghiệp khai khoáng ở miền Tây, tổ chức IWW, hay Wobblies như
người ta thường gọi, đã trở nên nổi tiếng sau những cuộc đụng độ ở các mỏ khai
khoáng tại Colorado năm 1903 và sau khi họ bị đàn áp dã man. Bị ảnh hưởng bởi
các quân nhân theo chủ nghĩa vô chính phủ và do công khai kêu gọi đấu tranh,
Wobblies đã chiếm được sự ủng hộ mạnh mẽ sau khi họ chiến thắng trong cuộc đình
công khó khăn tại các nhà máy dệt ở Lawrence, bang Massachusetts năm 1912. Tuy
nhiên, việc họ kêu gọi đình công vào thời điểm giữa cuộc Chiến tranh Thế giới
Thứ nhất đã bị Chính phủ đàn áp thẳng tay năm 1917 và đập tan phong trào này.
Sự thôi thúc phải cải cách
Cuộc bầu cử tổng thống năm 1900
đã đem lại cho nhân dân Mỹ cơ hội xét đoán chính quyền Cộng hòa của Tổng thống
McKinley, đặc biệt chính sách đối ngoại của chính quyền này. Gặp gỡ nhau ở
Philadelphia, các Đảng viên Cộng hòa đã biểu lộ niềm hân hoan về thành công
trong cuộc chiến với Tây Ban Nha, về sự phục hồi thịnh vượng và về nỗ lực nhằm
giành được các thị trường mới nhờ chính sách mở cửa. McKinley dễ dàng một lần nữa
đánh bại đối thủ của mình là William Jennings Bryan. Nhưng vị tổng thống này đã
không còn đủ thời gian để tận hưởng thắng lợi của mình. Tháng 9/1901, trong một
cuộc triển lãm ở Buffalo, bang New York, ông đã bị ám sát và trở thành vị tổng
thống Mỹ thứ ba bị ám sát kể từ thời Nội chiến.
Theodore Roosevelt, Phó Tổng thống
của McKinley đã kế nhiệm chức tổng thống. Sự kế nhiệm của Roosevelt trùng hợp với
một thời kỳ mới trong đời sống chính trị và quan hệ đối ngoại của nước Mỹ. Lục
địa đã đông dân cư và biên giới thì biến mất. Một quốc gia nhỏ bé theo chế độ cộng
hòa trước đây nay đã trở thành một cường quốc thế giới. Những nền tảng chính trị
của đất nước đã được thiết lập từ các cuộc chiến tranh với bên ngoài và các cuộc
Nội chiến, từ sự thịnh vượng và cả từ các cuộc suy thoái. Những bước tiến lớn
đã được thực hiện trong nông nghiệp và công nghiệp. Giáo dục công đã được triển
khai rộng rãi và miễn phí, tự do báo chí được đảm bảo. Lý tưởng về tự do tôn
giáo đã được duy trì. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nền kinh doanh lớn lúc này được
củng cố nhiều hơn bất cứ lúc nào khác, chính quyền địa phương và chính quyền
thành phố thường nằm trong tay các nhà chính trị tham nhũng.
Để đối phó lại sự suy thoái của
chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX và sự suy đồi về chính trị, một phong trào cải cách
đã xuất hiện và có tên là phong trào tiến bộ. Phong trào này đã khiến nền chính
trị và tư tưởng Mỹ có một vài điểm khác biệt từ khoảng năm 1890 cho tới khi nước
Mỹ tham gia vào Chiến tranh Thế giới Thứ nhất năm 1917. Phong trào tiến bộ có
các mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, những người tham gia phong trào
này tự coi mình là các đảng viên dân chủ đấu tranh chống lại sự lạm dụng của giới
chủ chính trị ở thành thị và của giới chủ cướp bóc tham nhũng tại các công ty lớn.
Mục đích của phong trào này là xây dựng một nền dân chủ và công bằng xã hội rộng
lớn hơn, duy trì một chính phủ trung thực, điều tiết kinh doanh hiệu quả hơn và
cam kết cải thiện các dịch vụ công. Họ tin rằng việc mở rộng phạm vi quản lý của
chính phủ sẽ bảo đảm cho sự tiến bộ của xã hội Mỹ và phúc lợi cho mọi công dân
Mỹ.
Những năm từ 1902 đến 1908 đã
đánh dấu thời kỳ cải cách rộng lớn nhất, khi các nhà văn và các nhà báo đều đấu
tranh mạnh mẽ phản đối các nguyên tắc và thực tế vốn được thừa hưởng từ nền cộng
hòa nông thôn thế kỷ XVIII hiện đang tỏ ra không phù hợp với các bang đô thị
hóa của thế kỷ XX. Nhiều năm trước đó, vào năm 1873, nhà văn lỗi lạc Mark Twain
đã chỉ trích và bóc trần xã hội Mỹ trong tác phẩm Thời đại giàu có. Lúc này,
các bài báo sắc bén chống lại các công ty độc quyền, giới tài phiệt, các loại
thực phẩm không sạch, hoạt động xấu xa của ngành đường sắt đã bắt đầu xuất hiện
trên các tờ nhật báo và trong các tạp chí nổi tiếng như McClure’s và Collier’s.
Tác giả của những bài báo này – ví dụ như nhà báo Ida May Tarbell, người đã đấu
tranh chống lại Công ty độc quyền dầu mỏ Standard – đã nhanh chóng nổi danh là
những người phanh phui bê bối.
Trong cuốn tiểu thuyết gây xôn
xao dư luận của mình – Rừng rậm – văn hào Upton Sinclair đã mô tả những điều kiện
làm việc bẩn thỉu trong các phân xưởng đóng gói thịt ở Chicago và lên án sự kìm
kẹp của công ty độc quyền thịt bò đối với nguồn cung cấp thịt của nước Mỹ.
Theodore Dreiser trong cuốn tiểu thuyết Nhà tài phiệt và Người khổng lồ đã khiến
dân chúng dễ dàng hiểu được những mưu đồ của các công ty lớn. Cuốn Bạch tuộc của
Frank Norris đã lên án giới chủ đường sắt vô đạo đức, cuốn Hố bẫy của ông đã
bóc trần những thủ đoạn bí mật trên thị trường ngũ cốc ở Chicago. Tác phẩm Sự xấu
hổ của các thành phố của Lincoln Steffen đã vạch trần nạn tham nhũng chính trị.
Sự bùng nổ của các tác phẩm văn học hiện thực này đã kêu gọi dân chúng hành động.
Ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhà văn
không hề biết thỏa hiệp và các tầng lớp nhân dân vùng lên ngày càng rộng khắp
đã kích động các lãnh tụ chính trị tiến hành một loạt các biện pháp thực tế.
Nhiều bang đã ban hành những bộ luật nhằm cải thiện điều kiện sống và làm việc
của dân chúng. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của những nhà phê bình xã hội xuất
chúng như Jane Addams, những bộ luật về lao động trẻ em đã được củng cố và các
bộ luật mới đã được thông qua. Nội dung của các bộ luật này là tăng giới hạn về
tuổi, giảm bớt giờ làm việc, hạn chế làm việc ban đêm và yêu cầu trẻ em phải đi
học.
Những cải cách của Roosevelt
Vào đầu thế kỷ XX, phần lớn các
đô thị lớn và hơn một nửa số bang đã thực hiện chế độ làm việc tám giờ một ngày
ở các công sở. Một bộ luật khác cũng không kém phần quan trọng là luật bồi thường
cho người làm thuê. Các bộ luật này quy định giới chủ lao động phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật đối với những tai nạn lao động của người làm thuê. Những
bộ luật mới về thu nhập cũng được ban hành, nhằm đánh thuế vào các tài sản thừa
kế, các khoản thu nhập và các tài sản hoặc lợi nhuận của công ty. Các bộ luật
này đã chuyển gánh nặng chi phí của chính phủ lên vai những người có thu nhập
cao.
Đối với nhiều người – nhất là đối
với Tổng thống Theodore Roosevelt và các thủ lĩnh Đảng Tiến bộ ở Quốc hội (nổi
tiếng hơn cả là Thượng nghị sỹ Robert LaFollette của bang Wisconsin) – rõ ràng
là những vấn đề mà các nhà cải cách quan tâm nhất chỉ có thể được giải quyết nếu
chúng được tiến hành trên khắp nước Mỹ. Roosevelt đã tuyên bố về quyết tâm của
mình muốn đem lại cho người dân Mỹ một sự đối xử công bằng.
Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu
tiên của mình, ông đã có một sáng kiến – chính sách nhằm tăng cường sự kiểm
soát của chính phủ thông qua việc thực thi các đạo luật chống độc quyền. Trước
sự vận động của ông, Quốc hội đã thông qua đạo luật Elkins năm 1903, nhằm cấm
các công ty đường sắt hạ giá vận chuyển cho một số chủ tàu quen. Đạo luật này
đã khiến các mức cước phí vận chuyển được thống nhất theo quy chuẩn của luật
pháp và các chủ tàu đều bình đẳng với nhau khi ngành đường sắt hạ giá cước vận
chuyển. Bên cạnh đó, Quốc hội đã thành lập một Bộ Thương mại và Lao động mới,
trong đó bao gồm cả Văn phòng Doanh nghiệp có chức năng điều tra các vụ làm ăn
của các tập đoàn.
Roosevelt đã được ca ngợi là một
chiến sỹ chống độc quyền, nhưng thái độ của ông đối với các doanh nghiệp lớn dường
như còn phức tạp. Ông tin rằng một nền kinh tế tập trung là không thể tránh khỏi.
Một số tập đoàn độc quyền là tốt, một số khác thì lại xấu. Nhiệm vụ của chính
phủ là phải có sự phân biệt rõ ràng. Ví dụ, khi Văn phòng Doanh nghiệp phát hiện
ra vào năm 1907 rằng Công ty tinh chế đường Hoa Kỳ đã gian lận thuế nhập khẩu,
công ty này đã phải nộp phạt 4 triệu đô-la và một số quan chức của công ty bị kết
án. Công ty dầu Standard cũng đã bị truy tố về tội nhận tiền chiết khấu bí mật
từ Công ty Đường sắt Chicago và Alton. Khoản tiền phạt lên tới 29 triệu đô-la.
Tính cách nổi bật của Tổng thống
Roosevelt và các hoạt động chống độc quyền của ông đã giành được sự ủng hộ của
những người dân bình thường; mọi người dù ở bất kỳ đảng phái nào đều tỏ ý tán
thưởng những biện pháp tiến bộ của ông. Thêm vào đó, nền kinh tế thịnh vượng của
đất nước trong giai đoạn này đã khiến dân chúng cảm thấy hài lòng với đảng cầm
quyền. Roosevelt đã thắng cử một cách dễ dàng trong cuộc bầu cử tổng thống năm
1904.
Được khích lệ bởi thắng lợi tranh
cử vang dội, Roosevelt đã kêu gọi cải cách mạnh mẽ ngành đường sắt. Tháng
6/1906, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Hepburn. Luật này cho phép ủy ban Thương
mại Liên bang được điều chỉnh thuế, mở rộng quyền lực pháp lý của ủy ban và buộc
các công ty đường sắt phải từ bỏ quyền lợi của họ trong các công ty đường thủy
và các công ty khai thác than.
Những biện pháp khác của Quốc hội
tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa nguyên tắc kiểm soát của liên bang. Luật Thực phẩm Sạch
ban hành năm 1906 cấm sử dụng bất kỳ một loại thuốc, hóa chất hay chất bảo quản
thực phẩm có hại nào trong thuốc men và thực phẩm. Đạo luật Thanh tra Thịt cũng
được ban hành vào năm này và cho phép thanh tra liên bang kiểm tra tất cả các
cơ sở đóng gói thịt tham gia giao dịch liên bang.
Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, sự
phát triển có quản lý của những khu đất công, và khai phá những vùng đất rộng lớn
bấy lâu bị bỏ quên là một số những thành tựu quan trọng khác nữa của thời đại
Roosevelt. Roosevelt và các phụ tá của ông còn hoạt động nhiều hơn cả những nhà
bảo tồn, nhưng với sự khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách vô
tội vạ trước đó, công tác bảo tồn vẫn là một thách thức lớn trong chương trình
hành động của họ. Trong khi những người tiền nhiệm của ông đã giành 18.800.000
hecta cho các khu rừng bảo tồn và công viên thì Roosevelt đã tăng diện tích này
lên tới 59.200.000 hecta. Ông cũng bắt đầu một loạt các nỗ lực nhằm ngăn ngừa nạn
cháy rừng và tái trồng rừng trên những khu đất trọc.
Taft và Wilson
Uy tín của Roosevelt lên đến đỉnh
cao khi chiến dịch tranh cử năm 1908 đang đến gần, nhưng ông không muốn phá vỡ
truyền thống vì chưa có tổng thống nào giữ cương vị tổng thống nhiều hơn hai
nhiệm kỳ. Ông ủng hộ William Howard Taft, người đã làm việc trong chính quyền của
ông với cương vị là Thống đốc Philippines và Bộ trưởng Chiến tranh. Trong cuộc
vận động tranh cử, Taft cam kết tiếp tục các chương trình cải cách của
Roosevelt. Ông đã đánh bại Bryan – người đã ba lần tranh cử chức tổng thống và
đây cũng là lần tranh cử cuối cùng của ông này.
Vị tổng thống mới tiếp tục làm
trong sạch các công ty độc quyền, nhưng với thái độ mềm dẻo hơn Roosevelt, ông
tiếp tục củng cố quyền lực cho ủy ban Thương mại Liên bang, thành lập một ngân
hàng tiết kiệm bưu điện và một hệ thống bưu phẩm, mở rộng các ngành dịch vụ dân
sự và bảo trợ việc ban hành hai Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp được thông qua
năm 1913.
Điều bổ sung sửa đổi thứ 16 của
Hiến pháp – chỉ được phê chuẩn ngay trước khi Tổng thống Taft kết thúc nhiệm kỳ
– đã cho phép thực hiện thuế thu nhập liên bang; Điều bổ sung sửa đổi thứ 17 –
được thông qua một vài tháng sau đó – đã cho phép dân chúng trực tiếp bầu các
Thượng nghị sỹ, thay thế cho hệ thống trước đó khi mà các thượng nghị sỹ được
cơ quan lập pháp bang lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu này, Tổng
thống Taft đã cho phép duy trì một biểu thuế quan mới có mức độ bảo hộ cao hơn;
ông cũng đã chống lại việc bang Arizona gia nhập Liên bang vì Hiến pháp tự do của
bang này; và tổng thống ngày càng dựa nhiều hơn vào cánh bảo thủ trong Đảng của
mình.
Năm 1910, đảng của Taft đã bị
chia rẽ ghê ghớm. Vào cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, Đảng Dân chủ đã giành quyền kiểm
soát Quốc hội. Hai năm sau đó, Woodrow Wilson, Thống đốc tiến bộ thuộc Đảng Dân
chủ của bang New Jersey đã tiến hành một chiến dịch tranh cử cạnh tranh với
Taft – ứng cử viên Đảng Cộng hòa, và cạnh tranh với Roosevelt – lúc này cũng
tham gia tranh cử với tư cách là ứng cử viên của Đảng Tiến bộ mới. Wilson đã
đánh bại hai đối thủ này trong một chiến dịch tranh cử rất quyết liệt.
Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu
tiên, Wilson đã đưa ra những chương trình lập pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử
Hoa Kỳ. Nhiệm vụ đầu tiên là sửa đối thuế quan. Wilson đã nói “Các mức thuế
quan cần phải được sửa đổi”. Chúng ta phải bãi bỏ tất cả những gì mang tính đặc
quyền. Biểu thuế Underwood đã được ký ngày 3/10/1913, nhằm giảm thuế nhập khẩu
đối với các loại nguyên liệu thô và thực phẩm quan trọng, đối với các mặt hàng
len, vải thô, với sắt và thép; đồng thời, biểu thuế này cũng bãi bỏ các loại
thuế đánh vào hơn một trăm mặt hàng khác. Tuy đạo luật này vẫn còn nhiều điểm
mang tính bảo hộ, nhưng nó là một nỗ lực thực sự làm giảm chi phí sinh hoạt. Để
bù đắp cho các khoản thất thu thuế nhập khẩu đó, đạo luật này đã áp dụng một mức
thuế tương đối thấp đánh vào thu nhập.
Công việc thứ hai trong chương
trình của Đảng Dân chủ là việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng và tiền tệ.
Wilson nói, “Việc kiểm soát phải là của nhà nước chứ không phải là của một cá
nhân. Chính phủ phải có nhiệm vụ kiểm soát để ngân hàng trở thành công cụ, chứ
không trở thành ông chủ của các hoạt động kinh doanh và của các doanh nghiệp và
sáng kiến cá nhân.
Bộ luật Dự trữ Liên bang ban hành
ngày 23/12/1913 là một trong những thành công về lập pháp của Wilson. Các đảng
viên Bảo thủ đã ra sức ủng hộ việc thành lập một ngân hàng trung ương. Nhưng bộ
luật mới của Wilson – được ban hành theo chủ trương của đại biểu Đảng Dân chủ
Jeffersonian – lại chia đất nước thành 12 quận, mỗi quận có một Ngân hàng Dự trữ
Liên bang, tất cả các ngân hàng này đều do ủy ban Dự trữ Liên bang giám sát và
chỉ có quyền hạn nhất định trong việc đưa ra các mức lãi suất khác nhau. Đạo luật
này đảm bảo cho hoạt động cung tiền được linh hoạt hơn và giúp cho khoản dự trữ
tiền tệ của các ngân hàng dự trữ liên bang đáp ứng được nhu cầu kinh doanh. Hệ
thống này được tập trung hóa ở mức độ cao hơn vào những năm 1930.
Nhiệm vụ quan trọng kế tiếp là điều
tiết các công ty độc quyền và điều tra các vụ vi phạm pháp luật trong các công
ty. Quốc hội đã cho phép ủy ban Thương mại Liên bang ban hành các lệnh cấm các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các giao dịch buôn bán liên bang. Bộ
luật Chống độc quyền Clayton đã cấm nhiều hoạt động của các tập đoàn đang vi phạm
luật pháp như việc các ban giám đốc cấu kết với nhau, phân biệt đối xử về giá đối
với các khách hàng, sử dụng mệnh lệnh trong những cuộc tranh chấp với người lao
động và việc một công ty sở hữu cổ phần trong nhiều doanh nghiệp tương tự nhau.
Nông dân và những người lao động
khác cũng không bị quên lãng. Bộ luật Smith-Lever năm 1914 đã thành lập một hệ
thống mở của các cơ quan nhà nước nhằm hỗ trợ nông dân trên khắp quốc gia. Các
Bộ luật tiếp theo đã cho phép nông dân vay tiền với lãi suất thấp. Bộ luật
Seamen ban hành năm 1915 cũng đã cải thiện các điều kiện sống và làm việc trên
các tàu biển. Bộ luật Bồi thường cho người lao động Liên bang năm 1916 đã đảm bảo
cấp tiền trợ cấp cho người lao động bị tàn phế khi đang làm việc trong các
ngành dịch vụ dân sự, và xây dựng một hình mẫu trợ cấp tương tự áp dụng trong
các doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật Adamson ban hành cùng năm đó đã thiết lập chế
độ làm việc tám giờ một ngày cho lao động ngành đường sắt.
Những thành tựu này đã khiến
Wilson chiếm được một vị trí vững chắc trong lịch sử nước Mỹ với tư cách là một
trong những nhà cải cách chính trị tiên tiến nhất của dân tộc. Tuy nhiên, uy
tín đối nội của ông đã nhanh chóng bị lu mờ trước những thành tích trong công
việc đối ngoại với tư cách là một vị tổng thống thời chiến tranh, người đã dẫn
đất nước tới chiến thắng, nhưng sau đó lại không thể duy trì được sự ủng hộ của
dân chúng đối với nền hòa bình.
Một dân tộc của nhiều dân tộc
Không có một quốc gia nào trên thế
giới lại có lịch sử gắn bó chặt chẽ với những dòng người nhập cư nhiều như Hoa
Kỳ. Trong 15 năm đầu tiên của thế kỷ XX, hơn 13 triệu người đã đến Hoa Kỳ. Nhiều
người trong số họ nhập cư vào nước Mỹ thông qua đảo Ellis – trung tâm nhập cư của
Liên bang, được mở cửa năm 1892 tại cảng New York (Mặc dù không còn hoạt động nữa,
song đảo này đã được mở cửa lại năm 1992 để làm đài tưởng niệm hàng triệu người
đã từng bước qua ngưỡng cửa của nước Mỹ tại đây).
Cuộc thống kê dân số đầu tiên năm
1790 đã ước tính dân số Mỹ là 3.929.214 người. Gần một nửa dân số của 13 bang đầu
tiên có nguồn gốc từ nước Anh; phần còn lại là người Scotlen, Ai-len, người Đức,
người Hà Lan, người Pháp, người Thụy Điển, người xứ Wales và người Phần Lan. Những
người châu Âu da trắng này phần lớn đều theo đạo Tin Lành. Một phần năm dân số
Mỹ là những nô lệ châu Phi.
Từ rất sớm, người Mỹ đã coi những
người nhập cư như một nguồn lực cần thiết để mở rộng biên giới. Kết quả là chỉ
có rất ít quy định hạn chế dòng người nhập cư vào Mỹ cho tới tận thập niên
1920. Tuy nhiên, khi ngày càng có nhiều dân nhập cư tới nước Mỹ thì một số người
Mỹ lại lo ngại rằng nền văn hóa của họ đang bị đe dọa.
Những người lập quốc, đặc biệt là
Thomas Jefferson, đã tỏ ra mâu thuẫn trong quan điểm về việc nước Mỹ có nên
chào đón dòng người nhập cư từ mọi nơi trên trái đất hay không. Tổng thống
Jefferson đặt câu hỏi liệu nền dân chủ có được an toàn trong bàn tay của những
con người mới tới nước Mỹ từ những xứ sở vốn vẫn duy trì chế độ quân chủ hoặc
luật lệ hoàng gia hay không. Tuy vậy, ít người ủng hộ việc đóng cửa hoàn toàn đối
với lực lượng lao động nhập cư từ nước ngoài.
Phong trào nhập cư có xu hướng chậm
lại vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX vì các cuộc chiến tranh đã ngăn cản
giao thông xuyên Đại Tây Dương và các chính phủ châu Âu đã ngăn cấm di cư để giữ
lại thanh niên trong độ tuổi tòng quân. Sau đó, dân số châu Âu tăng lên. Việc
có nhiều người hơn trên một vùng đất cũ đã khiến nông dân phải thu hẹp các khoảnh
đất canh tác, đến nỗi gia đình họ chỉ đủ để tồn tại. Hơn nữa, các ngành công
nghiệp nông thôn đang trở thành nạn nhân của cuộc Cách mạng Công nghiệp mà thực
chất chính là việc hoạt động sản xuất được cơ khí hóa. Ở châu Âu, hàng ngàn thợ
thủ công đã bị thất nghiệp vì họ không muốn hoặc không thể tìm được việc làm
trong các nhà máy.
Giữa thập niên 1840, hàng triệu
người nhập cư đã tìm đường tới Mỹ vì ở Ai-len, khoai tây bị phá hại do côn
trùng và ở Đức, các cuộc cách mạng cứ xảy ra liên miên. Đồng thời, một số người
nhập cư từ miền Đông Nam Trung Quốc nghèo khổ cũng đến các bang ở bờ Tây nước Mỹ.
Vào những năm từ 1890 đến 1921, gần
19 triệu người nhập cư đã đến Mỹ. Đây cũng chính là năm mà Quốc hội Mỹ lần đầu
tiên thông qua các quy định hạn chế số lượng người nhập cư. Phần đông những người
nhập cư này tới từ Italia, Nga, Ba Lan, Hy Lạp và các nước vùng Ban-căng. Những
người không phải từ châu Âu cũng đến nước Mỹ: người Nhật đến nước Mỹ từ phía
đông, người Canada từ phía nam và người Mexico từ phía bắc.
Cho tới đầu thập niên 1920, một
liên minh đã được hình thành giữa những người làm công ăn lương có tổ chức và
những người ủng hộ nhập cư hạn chế vì lý do chủng tộc hay tôn giáo – đó là Liên
đoàn Ku Klux Klan và Hạn chế Nhập cư. Bộ luật Nhập cư Johnson – Reed năm 1924
đã khiến lượng người nhập cư bị cắt giảm vĩnh viễn bằng các hạn ngạch nhập cư
căn cứ trên quốc tịch gốc của họ.
Cuộc Đại suy thoái những năm 1930
đã khiến dòng người nhập cư ngày càng giảm. Nói chung, công chúng phản đối các
dòng người nhập cư, thậm chí đối với cả những người thiểu số đến từ châu Âu. Do
đó, chỉ có ít người tị nạn tìm được nơi trú ẩn ở nước Mỹ sau khi Adolf Hitler
lên cầm quyền năm 1933.
Trong suốt nhiều thập niên sau
chiến tranh, Hoa Kỳ tiếp tục duy trì hạn ngạch dựa vào quốc tịch gốc của những
người nhập cư. Những người ủng hộ Đạo luật Mc Carran – Walter năm 1952 cho rằng
sự nới lỏng hạn ngạch có thể khiến nước Mỹ chịu nguy hiểm khi quá nhiều người
theo tư tưởng Mác-xít đến Mỹ từ Đông Âu.
Năm 1965, Quốc hội đã thay thế hạn
ngạch dựa trên nguồn gốc nhập cư bằng các hạn ngạch dựa trên việc người đó đến
từ bán cầu Nam hay bán cầu Bắc. Họ hàng của các công dân Mỹ sẽ được ưu tiên,
cũng như những người nhập cư có trình độ tay nghề cao – lực lượng mà nước Mỹ
đang thiếu. Năm 1978, hạn ngạch theo bán cầu đã được thay thế bằng mức trần áp
dụng cho toàn thế giới là 290.000 người nhập cư mỗi năm. Sau khi Quốc hội Mỹ
thông qua Đạo luật Tị nạn năm 1980 thì con số này đã giảm xuống 270.000 người mỗi
năm.
Từ giữa thập niên 1970, nước Mỹ
đã phải đối mặt với một làn sóng nhập cư mới từ châu Á, châu Phi và châu Mỹ
La-tinh. Những cộng đồng dân cư này đã làm biến đổi đáng kể các cộng đồng dân
cư khác trên khắp nước Mỹ. Ước tính hiện nay dự báo rằng tổng số người nhập cư
vào Mỹ một cách hợp pháp hằng năm chừng 600.000 người.
Tuy nhiên, hạn ngạch về người nhập
cư và người di tản đã khiến cho nhu cầu về lao động không được đáp ứng đầy đủ.
Do đó, nạn nhập cư bất hợp pháp vẫn là một vấn đề nghiêm trọng. Hàng ngày, người
Mexico và người châu Mỹ La-tinh vẫn vượt qua biên giới tây nam nước Mỹ để tìm
kiếm việc làm với mức lương cao hơn và được hưởng một nền giáo dục cùng chăm
sóc y tế tốt hơn cho gia đình họ. Tương tự, dòng người di cư bất hợp pháp vẫn đến
Mỹ từ Trung Quốc và các nước châu Á khác. Các ước tính là khác nhau, nhưng nhiều
ước tính cho rằng có tới 600.000 người nhập cư bất hợp pháp đến Hoa Kỳ hàng
năm.
Làn sóng nhập cư khổng lồ này gây
ra những căng thẳng về xã hội cùng với những lợi ích về kinh tế và văn hóa. Tuy
nhiên, một điều đã ăn sâu trong tiềm thức của người Mỹ là niềm tin vào Tượng Nữ
thần Tự do đang đứng sừng sững như một biểu tượng cho nước Mỹ khi bà giương cao
ngọn đuốc trước chiếc cổng vàng chào đón những con người đang nóng lòng được
hít thở bầu không khí tự do. Niềm tin ấy, và sự hiểu biết chắc chắn rằng, tổ
tiên của người Mỹ đã từng là những người nhập cư, đã khiến cho nước Mỹ vẫn là một
dân tộc của nhiều dân tộc.
Nguồn: ĐSQ Hoa Kỳ tại Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét