Khi 22 tuổi, Adam
Smith đưa ra một tuyên bố nổi tiếng, “Điều kiện tiên quyết để đưa một quốc gia
từ mức độ man rợ thấp nhất đến phồn thịnh cao nhất là không gì khác ngoài hòa
bình, thuế khóa vừa phải, và một chính quyền tôn trọng công lý: mọi điều còn lại
là do quá trình tự nhiên của sự vật đem tới.”[1] Ngày nay, gần 260 năm sau,
chúng ta biết điều đó là hoàn toàn sai lầm.
Việc chiếc máy bay
mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines biến mất đã chứng tỏ
Smith sai lầm ra sao khi nó làm nổi bật sự tương tác phức tạp giữa nhà nước và
nền sản xuất hiện đại.
Để đảm bảo đi lại bằng
hàng không khả thi và an toàn, nhà nước đảm bảo phi công biết cách lái máy bay
và chiếc máy bay đó phải vượt qua các bài kiểm tra nghiêm ngặt. Họ xây dựng sân
bay và cung cấp hệ thống ra-đa và vệ tinh để theo dõi các máy bay, kiểm soát
không lưu để giữ chúng bay cách xa nhau, và các dịch vụ an ninh để ngăn chặn những
kẻ khủng bố. Và, khi có sự cố, người ta không cần đến sự hỗ trợ từ hòa bình,
thuế khóa hợp lý, và công lý; mà cần đến các cơ quan chính phủ chuyên nghiệp,
có nguồn lực dồi dào.
Mọi nền kinh tế tiên
tiến hiện nay có vẻ cần nhiều hơn những gì Smith dự đoán hồi ông còn trẻ. Các
chính phủ không chỉ lớn và phức tạp, bao gồm hàng ngàn cơ quan chịu trách nhiệm
quản lý hàng triệu trang quy tắc và quy định; họ còn dân chủ – và không chỉ bởi
họ tổ chức bầu cử thường xuyên. Tại sao?
Khi xuất bản cuốn The
Wealth of Nations[2] ở tuổi 43, Smith trở thành nhà khoa học về sự phức tạp
(complexity scientist) đầu tiên. Ông hiểu rằng nền kinh tế là một hệ thống phức
tạp cần phối hợp công việc của hàng ngàn người chỉ để tạo nên những thứ đơn giản
như một bữa ăn hay một bộ đồ.
Nhưng Smith cũng hiểu
rằng trong khi nền kinh tế quá phức tạp để một người có thể tổ chức được thì nó
lại có khả năng tự tổ chức. Nó sở hữu một “bàn tay vô hình,” thứ hoạt động
thông qua giá cả thị trường để cung cấp một hệ thống thông tin có thể dùng để
tính toán rằng liệu việc sử dụng những nguồn lực cho một mục đích nhất định là
có đáng hay không – tức là có lợi nhuận hay không.
Lợi nhuận là một hệ
thống động lực khiến các doanh nghiệp và cá nhân đáp ứng lại các thông tin mà
giá cả cung cấp. Và thị trường vốn chính là một hệ thống huy động nguồn lực, nó
cung cấp tiền bạc cho các công ty và các dự án được mong đợi sẽ đem lại lợi
nhuận – tức những dự án phản ứng hiệu quả với giá thị trường.
Thế nhưng sản xuất hiện
đại lại đòi hỏi nhiều yếu tố đầu vào mà thị trường không thể cung cấp. Và như
trong trường hợp của các hãng hàng không, các yếu tố đầu vào này – quy định,
tiêu chuẩn, chứng nhận, cơ sở hạ tầng, trường học và trung tâm đào tạo, phòng
thí nghiệm khoa học, các dịch vụ an ninh, và nhiều thứ khác khác – được kết hợp
với những yếu tố có thể mua được từ thị trường. Chúng tương tác với các hoạt động
mà thị trường tổ chức theo những cách thức phức tạp nhất.
Vậy vấn đề ở đây là:
Ai kiểm soát việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công chúng? Thủ tướng? Cơ
quan lập pháp? Thẩm phán hàng đầu đất nước nào đã đọc hàng triệu trang các quy
định pháp luật hoặc xem xét chúng bổ sung hay mâu thuẫn lẫn nhau thế nào, chưa
nói đến việc áp dụng chúng vào vô số hoạt động khác nhau bao gồm nền kinh tế?
Ngay cả một tổng thống hành pháp (presidential executive)[3] cũng không thể nắm
rõ những thứ được hay không được thực hiện bởi hàng ngàn cơ quan chính phủ và
cách chúng ảnh hưởng đến từng phần của xã hội như thế nào.
Đây là một vấn đề cần
nhiều thông tin, và cũng như các thách thức về mặt phối hợp xã hội mà thị trường
giải quyết, nó không cho phép điều khiển theo hướng tập trung hóa. Điều cần thiết
là một cơ chế tương tự bàn tay vô hình của thị trường: một cơ chế tự tổ chức. Bầu
cử rõ ràng là không đủ, bởi chúng thường diễn ra hai hay bốn năm một lần và thu
thập rất ít thông tin từ mỗi cử tri.
Thay vào đó, một hệ
thống chính trị thành công phải tạo nên được một bàn tay vô hình thay thế – một
hệ thống phi tập trung hóa quyền lực để có thể xác định được vấn đề, đề xuất giải
pháp, và giám sát hiệu quả thực hiện, để các quyết định được đưa ra dựa trên
nhiều thông tin hơn.
Để lấy một ví dụ,
chính phủ liên bang Hoa Kỳ chỉ chiếm 537 ghế trong khoảng 500.000 vị trí dân cử
của nước này. Rõ ràng, còn nhiều điều diễn ra ở những nơi khác.
Quốc hội Hoa Kỳ có
100 thượng nghị sĩ với 40 trợ lý cho mỗi người, và 435 dân biểu với 25 trợ lý
cho mỗi người. Họ được tổ chức thành 42 ủy ban và 182 tiểu ban, có nghĩa là có
224 cuộc đàm thoại song song diễn ra cùng lúc. Nhưng nhóm gồm hơn 15.000 người
này không tồn tại đơn lẻ. Đối mặt với họ là khoảng 22.000 chuyên gia vận động
hành lang, mà một trong những nhiệm vụ của họ là cùng ngồi xuống với những nhà
lập pháp để dự thảo các đạo luật.
Điều này, cùng với một
nền báo chí tự do, là một phần của cái cấu trúc vốn giúp đọc hàng triệu trang
luật và giám sát những gì các cơ quan chính phủ thực hiện hay không thực hiện.
Nó tạo ra các thông tin và các động cơ để phản hồi lại nó. Nó ảnh hưởng đến việc
phân bổ ngân sách. Nó là một hệ thống mở mà trong đó ai cũng có thể tạo ra tin
tức hoặc tìm một chuyên gia vận động hành lang để được trợ giúp, cho dù đó là bảo
vệ cá voi hay là ăn thịt chúng.
Nếu không có một cơ
chế như vậy, hệ thống chính trị không thể cung cấp kiểu môi trường mà nền kinh
tế hiện đại cần. Đó là lí do tại sao tất cả các nước giàu lại dân chủ, và tại
sao một số nước, như của người viết bài này (Venezuela), đang trở nên nghèo
hơn. Cho dù một số các nước này có tổ chức bầu cử, họ có xu hướng vấp ngã tại
ngay cả những vấn đề phối hợp đơn giản nhất. Xếp hàng để bỏ phiếu không đảm bảo
rằng người dân sẽ không còn phải xếp hàng để mua giấy vệ sinh.
Ricardo Hausmann là cựu
Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và cựu Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển
Liên Mỹ, giáo sư ngành Thực hành phát triển kinh tế tại Đại học Harvard, nơi
ông giữ chức Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế.
Nguồn: Ricardo
Hausmann, “Why Are Rich Countries Democratic?” Project Syndicate, Mar. 26, 2014.
http://nghiencuuquocte.net/2015/01/04/tai-sao-nuoc-giau-dan-chu/#more-5153
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét