Biên dịch Trần Anh
Phúc
Nếu xem xét cùng với
nhau, Việt Nam, Campuchia và Lào mang lại một điều gì đó khó hiểu. Trong khi Việt
Nam và Lào vẫn duy trì chế độ nhà nước cộng sản độc đảng, thì Campuchia trải
qua quá trình chuyển đổi dân chủ vào năm 1993 dưới sự giám sát của cộng đồng quốc
tế. Nhưng cả ba nước cuối cùng đều có cùng một nền chính trị rất tương đồng với
đặc trưng là sự thiếu cam kết đối với các giá trị tự do. Khi nỗ lực giải thích
cho điều này, chúng ta nên cân nhắc tầm quan trọng của văn hóa chính trị và
“chính trị tiền bạc”, trong khi cũng chú ý đến một thực tế là sự năng động của
xã hội dân sự và biểu tình tự phát đang dần trở nên phổ biến hơn.
Việt Nam, Campuchia
và Lào thường được xếp cùng một nhóm để phục vụ các mục đích phân tích. Điều
này bắt nguồn từ một số lý do rõ ràng. Cả ba nước đều là các thuộc địa cũ của
Pháp, từng được biết đến dưới cái tên chung là khu vực Đông Dương thuộc Pháp,
có vị trí địa lý nằm giáp biên nhau trên lục địa Đông Nam Á. Cả ba đều chứng kiến
sự nổi lên nắm quyền trên toàn quốc của các đảng cộng sản giữa những năm 1970.
Một điều khác cũng có liên quan đó là nỗ lực bất thành của Việt Nam trong thời
Chiến tranh Lạnh nhằm duy trì vai trò lãnh đạo đặc biệt ở Đông Dương, hợp nhất
với Campuchia và Lào sau khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia năm 1978. Từ khi
Chiến tranh Lạnh kết thúc, ba nước này được phân cùng một nhóm bởi vì đều nằm
trong nhóm các nước nghèo nhất Đông Nam Á, được lên kết với nhau thông qua Tiểu
vùng sông Mê Kông mở rộng, và là những thành viên non trẻ nhất của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ba nước cũng đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng và tình trạng nghèo đói ngày càng giảm kể từ những năm 1990 và được
nhìn nhận là đang trải qua quá trình “cải cách” chuyển từ kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, Việt Nam,
Campuchia, Lào hiện là các quốc gia độc lập có chủ quyền với những ảnh hưởng tiền
thuộc địa và nền lịch sử khác nhau. Mỗi nước có sự trải nghiệm khác nhau dưới
ách đô hộ thực dân Pháp và đặc điểm tình hình hậu thuộc địa ở mỗi nước cũng
khác nhau, thường khá khó nhận thấy. Ba nước cũng không đi theo cùng một quỹ đạo
từ sau Chiến tranh Lạnh. Việt Nam và Lào không trải qua sự chuyển đổi dân chủ
và duy trì các nhà nước cộng sản độc đảng. Ngược lại, Campuchia đã thực sự trải
qua quá trình chuyển đổi đó (được giám sát bởi cộng đồng quốc tế) vào năm 1993,
dầu rằng sau đó đa phần những tiến bộ dân chủ của nước này đã bị đảo ngược.
Hơn nữa, khi ba nước
này đã hội nhập đầy đủ hơn vào nền kinh tế khu vực Đông Nam Á cũng như toàn cầu,
những điều kiện hoàn cảnh mỗi nước khác nhau đang khiến các nước này phản ứng
trước các tác động về văn hóa, chính trị và kinh tế từ bên ngoài theo những
cách khác nhau. Những điều kiện này bao gồm cả các vấn đề về quy mô và vị trí địa
lý. Việt Nam với 86 triệu dân vượt trội so với một nước Campuchia với 15 triệu
dân và một nước Lào có nhiều đồi núi và được bao bọc bởi đất liền chỉ với 7 triệu
dân (nước nghèo nhất và nhỏ nhất trong 3 nước). Nền kinh tế Việt Nam cũng lớn
hơn gấp 8 lần so với Campuchia và gấp 15 lần so với Lào. Tóm lại, ba nước này
dù có thể so sánh với nhau nhưng vẫn khác biệt, với hướng đi đã và sẽ không
trùng khớp nhau.
Các chuyên gia khu vực
quen với ý nghĩ rằng cả 3 nước (dựa trên quyết định có chủ đích của nhóm chóp
bu) đều ủng hộ chính sách kinh tế quốc gia (định hướng thị trường) mang tính “cải
cách”. Việt Nam và Lào thường được cho là đã làm vậy tại các đại hội đảng toàn
quốc do các đảng cộng sản cầm quyền lần lượt tổ chức ở mỗi nước vào năm 1986.
Việt Nam thông qua chính sách “đổi mới” và Lào thì thông báo một “cơ chế kinh tế
mới” dựa trên “lối tư duy mới”.1 Campuchia nhìn chung cũng đi theo con đường đó
vào năm 1989 sau khi quân đội Việt Nam rút lui.
Nếu xét những gì mà
giới chóp bu được cho là đã làm, quan điểm thống nhất chung là những thay đổi ở
mỗi nước đã đạt được những mức độ đáng kể về cả kinh tế và chính trị, dầu rằng
khía cạnh kinh tế dần hiện hữu rộng lớn hơn khía cạnh chính trị. Tuy nhiên, sự
thống nhất này quá nhấn mạnh sự thay đổi, chính sách chính thống, và các sáng
kiến của giới chóp bu, trong khi lại đánh giá thấp tầm quan trọng của tính kế tục
về kinh tế – chính trị và mức độ mà các tác nhân bên ngoài các sáng kiến chính
sách được dẫn dắt bởi nhóm chóp bu đã góp phần định hình nên các sự kiện ở 3 nước
này.
Vấn đề đáng quan tâm ở
đây là mức độ mà giới chóp bu ở cả ba nước thường chỉ chính thức hóa các thử
nghiệm hoặc sáng kiến “từ dưới lên”, mang tính tự phát, có thể của các công chức, giám đốc doanh nghiệp, cư
dân thành thị hay các nông dân. Nói chung, giới chóp bu thích tỏ vẻ như họ là
người phụ trách và sẽ không thừa nhận rằng họ đang đối phó hơn là đang hành động
(chủ động). Tuy nhiên, như đã đề cập về trường hợp Trung Quốc có liên quan, bất
cứ một giải thích nào mà bỏ lơ vai trò của các sáng kiến không do chính quyền dẫn
dắt hoặc không chính thức đều là những giải thích đã “được thanh lọc kỹ”. Nó
“khiến chúng ta không chú ý đến những động lực thật sự của quá trình cải
cách”.2 Điều này không phải để phủ nhận việc giới chóp bu đã khởi xướng các đổi
mới mà chỉ để lập luận cho một đánh giá cân bằng hơn, trong đó ghi nhận vai trò
của cả sáng kiến chính thức và không chính thức, cũng như cân nhắc cả sự kế tục
và sự đổi mới. Hơn nữa, sự cân bằng này là quan trọng khi cân nhắc sự thay đổi
về mặt chính trị (ngay cả khi chưa đạt đến một sự chuyển đổi dân chủ toàn diện)
hay khi xem xét những cải cách đối với nền kinh tế.
Những giới hạn của cải
cách chính trị chính thức
Trong phạm vi của các
chế độ độc đảng ở mỗi nước, Việt Nam và Lào đã tiến hành những bước đi tương tự
nhau để cải tổ hệ thống chính trị của mình. Con đường của Campuchia thì lại
khác, dù nước này rốt cục có nhiều điểm tương đồng về mặt chính trị với các nước
láng giềng, bất chấp đã trải qua sự chuyển đổi dân chủ vào đầu những năm 1990.
Mặc dù các cải cách
khởi xướng tại đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 và đại hội Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào vào năm 1986 thường được cho rằng chủ yếu là về mặt kinh tế,
nhưng trong cả hai trường hợp này, các cải cách cũng có một phần chính trị rõ
ràng. Ở Việt Nam, tuyên bố chính sách mấu chốt từ năm 1986 nhấn mạnh các vấn đề,
trong đó bao gồm sự phối hợp kém giữa đảng cộng sản và chính quyền, cũng như
khuynh hướng các đảng viên hoạt động ngoài vòng pháp luật và chà đạp lên các
quy trình bầu cử. Sự phê bình này khởi đầu cho những bước đi chính thức của đảng
nhằm xây dựng một nhà nước “pháp quyền”, tăng cường vai trò của Quốc hội và vạch
rõ mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và người dân. Những vấn đề này vẫn còn
mang tính thời sự: chính xác thì Đảng cộng sản nhìn nhận như thế nào về nền
“pháp quyền”, cũng như mối quan hệ “đúng đắn” giữa người dân và nhà nước vẫn
còn là những câu hỏi mở.
Những cải cách ở Lào
cũng tập trung vào nền pháp quyền và bao gồm việc ban hành hiến pháp đầu tiên
thời hậu thuộc địa vào năm 1991 cùng với việc nhấn mạnh tăng cường hệ thống
hành chính quốc gia. Ở cả hai nước trên cũng đã có một sự cởi mở về không gian
xã hội thông qua quá trình “phi stalin hóa đời sống hàng ngày”.3 Những hạn chế
về đi lại trong nội địa và thậm chí ở nước ngoài được nới lỏng; sự giám sát
hàng ngày trở nên ít tràn lan và bớt hà khắc hơn; và các đầu mối truyền thông mới
đã được cấp phép thành lập cùng với các hội nhóm phi chính thức gồm cả các nhóm
tôn giáo. Dầu rằng những điều này không đưa đến một sự chuyển đổi dân chủ ở Việt
Nam hay Lào– nơi mà Đảng cộng sản vẫn nắm quyền và các lực lượng an ninh vẫn áp
đảo – thì bầu không khí ở cả hai nước đã thật sự trở nên tự do hơn một cách
đáng kể.
Vào cuối những năm
1980 và đầu những năm 1990, khi các cuộc biểu tình rầm rộ tại quảng trường
Thiên An Môn cùng với việc phá dỡ bức tường Béclin và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng
sản ở Trung – Đông Âu và Liên Xô cũ đã làm chấn động thế giới, thì cuộc tranh
luận về tương lai hệ thống chính trị của Việt Nam và Lào cũng nổ ra. Tuy nhiên,
hầu hết các cuộc thảo luận trên diễn ra sau hậu trường của những chính quyền
khép kín này, vì vậy khó mà biết được chính xác điều gì đã được bàn thảo. Nhưng
bản kết luận cơ bản thì rõ ràng. Đầu những năm 1990, cả Việt Nam và Lào đã dập
tắt lời kêu gọi của nhóm thiểu số về đa nguyên chính trị. Ở Lào, hai cựu thứ
trưởng và một nhân viên Bộ Tư pháp bị bỏ tù vì bị cáo buộc có âm mưu lật độ chế
độ.4 Ở Việt Nam, một thành viên Bộ Chính trị bị sa thải ngay trước đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ 7 năm 1991, rõ ràng vì ông công khai ủng hộ nền chính trị đa
đảng.
Tăng cường phản đối
chính trị dân chủ, cả 2 đảng cầm quyền tuyên bố kiên quyết bác bỏ cái mà họ cho
là “những đòi hỏi tự do quá mức” (ở Việt Nam) hay “một hệ thống đa đảng” (ở
Lào).5 Từ đó về sau, không một đảng nào thay đổi quan điểm cả. Họ tiếp tục nói
về phát huy “dân chủ”, nhưng điều này không có nghĩa họ ủng hộ dân chủ tự do,
mà thay vào đó là những điều như mở rộng số lượng đảng viên được phép có vai
trò trong việc bầu chọn các nhà lãnh đạo cấp cao, gia tăng số lượng vị trí cấp
chính quyền địa phương được bầu cử trực tiếp, và đảm bảo rằng đảng cộng sản
quan tâm lắng nghe hơn nữa ý kiến của các cán bộ nhà nước, các nhà lập pháp và
người dân.
Từ đầu những năm
1990, Việt Nam và Lào đều mở cửa đối với một loạt các tổ chức tài trợ song
phương và đa phương, cũng như các tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGOs), nhờ đó
đã nhận được nhiều nguồn viện trợ và hỗ trợ kỹ thuật. Các nhà tài trợ bao gồm cả
từ châu Á và phương Tây. Ở Lào có sự hiện diện mạnh mẽ của Việt Nam, Trung Quốc
và Thái Lan. Nhà tài trợ lớn của Việt Nam đến từ châu Á là Trung Quốc, nhưng sự
hiện diện của Trung Quốc bị quản lý cẩn trọng (giữa hai nước này đã nổ ra cuộc
chiến tranh trong thời gian ngắn nhưng rất gay gắt vào đầu năm 1979 và tiếp tục
có các cuộc đụng độ vũ trang khu vực biên giới cho đến năm 1990). Các nhà tài
trợ phương Tây đã làm việc với các chính phủ Việt Nam và Lào về những lĩnh vực
liên quan đến quản trị nhà nước như là quản lý hành chính công, cải cách hệ thống
pháp lý, chống tham nhũng, phát triển xã hội dân sự. Tuy nhiên, những điều này
hầu như không có nhiều ảnh hưởng đối với nền chính trị hai nước.
Quỹ đạo phát triển của
Campuchia thì lại hơi khác. Sau cuộc đưa quân vào Campuchia của Việt Nam năm
1978 nhằm lật đổ chế độ diệt chủng Khơme đỏ, một chính quyền được sự bảo trợ của
Việt Nam và từ năm 1985 do Hunsen đứng đầu đã nắm quyền điều hành Campuchia.
Trong suốt những năm 1980, cuộc nội chiến tiếp tục diễn ra ác liệt khi liên
minh những người bảo hoàng và phe Khơme đỏ đối chọi với chính quyền Campuchia
do Việt Nam bảo trợ. Hòa bình trở nên khả dĩ chỉ khi Việt Nam vì những lý do
chính trị trong nước của mình đã quyết định không thể duy trì hiện diện quân sự
tại Campuchia nữa. Theo sau hiệp định hòa bình được ký tại Paris năm 1991, một
sứ mệnh hoạt động đáng kể của Liên Hiệp Quốc được triển khai, dẫn đến các cuộc
bầu cử vào năm 1993 với sự tham gia tranh cử của 19 đảng phái.
Ít nhất là trong ngắn
hạn, Liên Hiệp Quốc đã có ảnh ưởng đáng kể. Campuchia đạt được những nền tảng
chính thức của chủ nghĩa hiến pháp tự do, bao gồm một đạo luật cơ bản mới nhất
quán với các nguyên tắc của nó. Ngoài ra, các hoạt động xã hội dân sự cũng tăng
nhanh; các phương tiện truyền thông đa dạng và có tiếng nói hơn cũng nổi lên.
Nhưng sự tự do đang đơm hoa này lại sớm bắt đầu lụi tàn. Các cuộc bầu cử vẫn tiếp
tục được tổ chức đều đặn, nhưng những kết quả đạt được trong những năm đầu thập
niên 1990 đã bị đảo ngược dần dưới bàn tay của Hunsen và Đảng Nhân dân
Campuchia (CPP) cầm quyền vốn vẫn cố duy trì kiểm soát quyền lực chặt chẽ. Điều
này đã dẫn đến sự suy yếu mang tính hệ thống của phe chính trị đối lập bao gồm
đảng bảo hoàng FUNCINPEC (từng là đối tác liên minh của CPP) và đảng Sam
Rainsy. Những người chỉ trích chính phủ thuộc giới truyền thông, các tổ chức
công đoàn hay xã hội dân sự nhìn chung thường bị mua chuộc hoặc bị dập tắt bởi
sự kết hợp của các biện pháp như quan hệ ô dù bảo trợ, đe dọa, bạo lực, thay đổi
luật bầu cử, hoặc vin vào những phiên tòa thiên về mặt chính trị.6
Trong cuộc bầu cử gần
đây nhất tổ chức vào tháng 7 năm 2008, đảng CPP, với việc giành được 90 trong số
123 ghế, lần đầu tiên từ năm 1993 đã có thể tự đứng ra thành lập một chính phủ
mới. CPP cũng kiểm soát 90% các xã hoặc các ủy ban cấp chính quyền địa phương.7
Đây là bước chuyển biến đáng kể đối với một đảng mà từng chỉ về thứ hai sau đảng
FUNCINPEC trong cuộc bầu cử năm 1993, điều mà nhiều người có khuynh hướng lãng
quên.
Giống như các chính
phủ Việt Nam và Lào, Campuchia cũng cho phép hoạt động và cùng làm việc với cộng
đồng tài trợ quốc tế về một loạt những cải cách quản trị nhà nước. Các nhà tài
trợ cũng đến từ cả các nước châu Á và phương Tây, trong đó Việt Nam và Trung Quốc
chiếm ưu thế trong số các nước châu Á. Tương tự Việt Nam và Lào, ảnh hưởng từ
các nhà tài trợ bên ngoài đối với đường hướng chính trị cơ bản của Campuchia đã
bị hạn chế một cách rõ rệt.
Những lực lượng đáng
kể duy trì sự tiếp nối
Tại sao ba nước láng
giềng của nhau này – riêng Campuchia thì từ sau quá trình chuyển đổi năm 1993,
trong khi hai nước Việt Nam và Lào thì gần như liên tục – lại bám chặt lấy con
đường phi dân chủ như vậy? Câu trả lời có thể nằm ngay trong các nền văn hóa
chính trị của giới tinh hoa tương tự nhau một cách đáng chú ý ở cả 3 nước này.
Truy nguyên nguồn gốc của sự tương đồng này nằm ngoài phạm vi của bài viết,8
nhưng chúng tôi có thể chứng minh những đặc điểm chung mà các nền văn hóa chính
trị nói trên chia sẻ, đồng thời vạch ra những ảnh hưởng của chúng.
Chủ nghĩa tinh hoa và
chủ nghĩa gia trưởng ăn sâu vào cốt lõi của các nền văn hóa chính trị rất tương
đồng ở 3 nước nói trên. Dưới ảnh hưởng của những yếu tố này, các giả định văn
hóa về mối quan hệ thích hợp giữa nhà nước và công dân, giữa người cai trị và tầng
lớp bị trị hoàn toàn trái ngược với những gì được cho là hiển nhiên ở phương
Tây. Trong xã hội 3 nước Đông Nam Á này có một niềm tin ngầm định mạnh mẽ rằng
thiện chí và phẩm chất đạo đức cao của những người cầm quyền – chứ không phải là
sự phân chia và kiểm soát quyền lực một cách khách quan thường được ưa thích bởi
truyền thống tự do – mới là những sự kiềm chế then chốt đối với quyền lực.9 Sự
phù hợp của định kiến văn hóa này có thể được thoáng thấy trong việc nhấn mạnh
vai trò của gia đình (hay chính xác hơn là của những người làm cha làm mẹ) ở cả
3 nước.
Cân nhắc các yếu tố
văn hóa chính trị giúp chúng ta dễ hiểu hơn lý do tại sao cả 3 đảng cầm quyền đều
bác bỏ chủ nghĩa đa nguyên và cảm thấy rất khó chịu về xã hội dân sự hoặc bất cứ
một hình thức tổ chức nào hoạt động ngoài các khuôn khổ của nhà nước hoặc đảng
cầm quyền. Trên khía cạnh này, điều đáng chú ý là các quy định hợp pháp hóa các
tổ chức phi chính phủ và hoạt động của các tổ chức này đã tiến bộ một cách chậm
chạm và thường gắn với nhiều tranh cãi ở cả 3 nhà nước nói trên.
Sự tập trung vào văn
hóa chính trị cũng giúp làm sáng rõ đặc trưng của các cuộc bầu cử ở Việt Nam,
Campuchia và Lào. Ở những nước này, giới cầm quyền xem bầu cử là cơ hội để người
dân khẳng định những công lao đích thực của các nhà lãnh đạo hơn là một cuộc cạnh
tranh giữa những lựa chọn khác nhau.10 Vì vậy, ở Việt Nam và Lào, Nhà nước luôn
tìm cách kiểm soát những người được bầu vào quốc hội, còn ở Campuchia, Hunsen
đã hành động như thể theo bản năng nhằm dập tắt bất kỳ quan điểm nào coi bầu cử
như một cuộc cạnh tranh nghiêm túc.
Hơn nữa, việc cân nhắc
đúng mức vấn đề văn hóa chính trị đặt ra những câu hỏi sâu sắc về điều gì đang
diễn ra khi mà các đảng cầm quyền làm việc với cộng đồng tài trợ quốc tế trong
các lĩnh vực như cải cách hành chính công hay chống tham nhũng. Những cải cách
mà các nhà tài trợ thúc đẩy thường lên quan đến sự phân chia và kiểm soát quyền
lực mang tính thể chế, điều mà giới lãnh đạo các nước tiếp nhận tài trợ nhìn nhận
với sự hoài nghi sâu sắc. Bất kể các nhà tài trợ nghĩ gì về những việc họ đang
làm, trên thực tế giới lãnh đạo địa phương hoặc là thiếu nghiêm túc về việc thể
chế hóa các cải cách tự do, hoặc là khăng khăng giải thích hay áp dụng chúng
theo những cách phi tự do. Cuối cùng, sự tập trung vào văn hóa chính trị giúp dễ
hiểu hơn (dầu không phải để tha thức cho) khuynh hướng các nhà cầm quyền đối xử
một cách gay gắt với các nhà bất đồng chính kiến và những người chỉ trích khác.
Các quyền, theo lối tư duy của những người cầm quyền, bắt nguồn từ việc phải
tuân theo nếp suy nghĩ gia trưởng, lấy giới tinh hoa làm trung tâm này. Vì vậy,
không có sự tuân thủ cũng đồng nghĩa với không có quyền.11
Ngoài một nền văn hóa
chính trị không thân thiện, một trở ngại lớn khác mà nền chính trị tự do đang vấp
phải tại Việt Nam, Campuchia và Lào có thể được quy cho sự trỗi dậy của “chính
trị tiền bạc” cùng với kết quả kéo theo của nó là sự thương mại hóa nhà nước. Cải
cách ở Đông Nam Á thường được cho là gắn liền (một cách ngấm ngầm hoặc rõ ràng)
với tự do hóa kinh tế và sự thoái lui của Nhà nước. Nhưng đó không phải là những
gì đã diễn ra. Những năm tháng cải cách ở Việt Nam, Lào, Campuchia đã thực sự
chứng kiến quá trình thị trường hóa, cùng với đó là một dạng thăng tiến của nhà
nước hơn là sự thoái lui, khi mà các chính trị gia, các quan chức và những người
có quan hệ mật thiết với họ đã tranh thủ lợi dụng những người trong cuộc tiếp cận
các cơ hội kinh doanh gắn liền với quá trình thị trường hóa và toàn cầu hóa để
làm giàu cho bản thân.
Ở Việt Nam, quá trình
này được ghi nhận lần đầu liên quan đến sự gia tăng của các nhóm lợi ích doanh
nghiệp nhà nước từ những năm 1980, khi mà những người có các mối quan hệ chính
trị bắt đầu tích lũy tư bản thông qua việc tham gia vào các giao dịch thị trường,
ngay cả trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Ở Lào, sự thương mại hóa nhà nước
là rõ ràng có liên hệ khá thường xuyên đến các chính trị gia và họ hàng của họ,
được biết đến như những người nắm giữ các vị trí cao đầy uy quyền của nền kinh
tế Lào. Ở Campuchia, quá trình này bắt đầu vào cuối những năm 1980 với việc bán
tháo các tài sản nhà nước, chủ yếu bởi đảng CPP, khi mà Hunsen cố lôi kéo thêm
đồng minh và gây ảnh hưởng đối với người dân nhằm chuẩn bị cho những thay đổi
được dự báo sẽ diễn ra trong môi trường chính trị nước này.
Những đặc trưng của nền
kính tế chính trị trong “kỷ nguyên cải cách” này đều tương đồng nhau ở cả Việt
Nam, Campuchia và Lào. Trước hết, như đã được đề cập thì các mối liên kết hoặc
quan hệ chính trị thường đóng vai trò cốt yếu. Đây là những điều cần thiết cho
sự bảo đảm về mặt chính trị cũng như tiếp cận nguồn đất đai, vốn, các hợp đồng,
hoặc có được (nếu không né tránh) những giấy phép cần thiết. Xung đột lợi ích
là phổ biến, với việc các cán bộ công chức (thường thực hiện các hành động
thông qua bạn bè hoặc họ hàng) hoạt động trong các lĩnh vực của nền kinh tế mà
họ chịu trách nhiệm điều hành. Hoạt động đầu cơ trục lợi dựa trên các thông tin
tay trong có được nhờ làm việc trong các cơ quan nhà nước là khá thường xuyên.
Đầu cơ đất – hay việc thâu tóm đất trực tiếp ở Campuchia – rất phổ biến ở cả 3
nước và đã chứng tỏ là con đường màu mỡ để giàu có nhanh chóng đối với các quan
chức, nhất là kể từ khi đất đai bắt đầu khôi phục lại thành hàng hóa có thể
chuyển nhượng vào cuối những năm 1980.
Trong tâm trí nhiều
người ở cả 3 nước tồn tại một sự liên kết chặt chẽ giữa việc nắm giữ các chức vụ
nhà nước với việc vun vén tài sản cá nhân. Giống như trường hợp về nền văn hóa
chính trị của giới tinh hoa, trường hợp này cũng có nguồn gốc lịch sử lâu đời,
đồng thời tiếp nhận những động lực mới từ những hoàn cảnh mới – trong trường hợp
này, đó là những yếu tố mà gắn liền với cải cách kinh tế dựa theo thị trường. Ở
Việt Nam, Campuchia và Lào, lương công chức đều thấp, nhưng những người có tham
vọng sẽ trả nhiều tiền để có được chức vụ và qua đó tiếp cận dễ dàng đến các lợi
ích cá nhân mà chức vụ đó mang lại. Vì vậy, đối với người đưa hối lộ, lượng tiền
hối lộ để được đề bạt dường như là một khoản đầu tư mà có thể dễ dàng thu lại
được nhờ những khoản tiền tô (rents) và các cơ hội khác mà một quan chức ở
cương vị tốt có thể nhận được.12
Ở cả 3 nước trên, nền
kinh tế chính trị này đang có những tác động sâu sắc đối với chính trị. Sự bất
bình đẳng cao không chỉ về mặt thu nhập mà cả về sở hữu đất tập trung. Ví dụ
như ở Campuchia, nơi mà quá trình tích lũy đất đai là kinh khủng nhất, thì chỉ
một phần mười dân số thường sở hữu đến gần hai phần ba diện tích đất và một phần
mười giàu nhất trong số đó – tương đương một phần trăm dân số nước này – được ước
tính sở hữu từ 20% đến 30%. Cứ năm hộ gia đình ở nông thôn thì có một hộ là không
có đất và con số này tiếp tục gia tăng 2% mỗi năm.13 Các lợi ích kinh doanh
đang có ảnh hưởng ngày càng lớn lên chính trị, đôi khi đến mức thâu tóm nhà nước.
Vận động hành lang sau hậu trường đối với chính phủ tăng mạnh khi mà các doanh
nghiệp cố định hình các luật lệ theo hướng có lợi cho mình. Các đảng cộng sản cầm
quyền hiện cho phép những người kinh doanh, các nhân vật có tiếng thuộc thành
phần kinh tế tư nhân tham gia vào quốc hội. Sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa
chính phủ và các doanh nghiệp đang thúc đẩy khuynh hướng thiên vị của nhà nước
đối với giới tư bản khi các tranh chấp thương mại phát sinh, đồng thời khiến
cho giới tinh hoa chính trị gia tăng thái độ thù địch bản năng đối với các công
đoàn độc lập.
Cuối cùng, có mối
liên hệ trực tiếp giữa nền kinh tế chính trị của “kỉ nguyên cải cách” này với
việc nền quản trị tự do không thể đạt được nhiều tiến bộ. Trong lĩnh vực cải
cách hành chính công, vốn từ lâu đã là một trụ cột chính trong các nỗ lực tài
trợ cho các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, nỗ lực nhằm loại bỏ các thủ tục hành
chính rườm rà thường không đạt được những cắt giảm toàn diện, bởi vì các chức vụ
hoặc cơ quan bị loại bỏ ở nơi này lại được thay thế bởi những chức vị hoặc các
vụ cục mới ở nơi khác. Điều này thường gây khó hiểu đối với những người bên
ngoài, nhưng nó hoàn toàn có lý đối với những người nào hiểu được việc nắm giữ
các chức vụ công và việc thu vén cá nhân gắn kết với nhau như thế nào trong xã
hội các nước nói trên. Việc dừng hoạt động các bộ ngành hoặc làm rõ các mô tả
công việc sẽ trực tiếp đánh vào cách cư xử tùy tiện mà các quan chức thường dựa
vào đó để kiếm thêm thu nhập, và vì vậy những biện pháp này phải bị lãng tránh.
http://nghiencuuquocte.net/2014/01/19/cai-cach-lao-cpp-vn/#more-841
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét