Ngô Nhân Dụng
Bản Hiệp ước Hạch tâm
Iran chính thức có hiệu lực trong tuần qua. Sự kiện này sẽ ảnh hưởng tới nền
ngoại giao Mỹ và bang giao quốc tế mươi chục năm sắp tới, nhưng hầu hết dân Mỹ
chẳng ai để ý tới.
Dân Mỹ đã được nghe
nói rất nhiều về “Iran Deal,” phần lớn là những lời chống đối từ các dân biểu,
nghị sĩ Cộng Hòa ngay từ đầu năm khi chính phủ Obama bắt đầu họp với Iran và
năm cường quốc khác. Lần đầu tiên trong lịch sử, một vị thủ tướng Israel được mời
nói chuyện với hai viện Quốc Hội Mỹ, chỉ để đả kích ý định ký thỏa hiệp của ông
tổng thống, một hiện tượng xưa nay chưa từng có. Lúc thỏa hiệp ký rồi, các tổ
chức “lobby” của người Mỹ gốc Do Thái dùng toàn lực vận động Quốc Hội bỏ phiếu
bác bỏ. Gần đây lại thêm các nhà chính trị muốn sang năm được đảng Cộng Hòa đưa
ra tranh cử tổng thống. Ngày Thứ Tư vừa qua, trong cuộc tranh luận truyền hình
trực tiếp, các ông Donald Trump, Marco Rubio, bà Carly Fiorina đã báo trước nếu
vào ngồi Tòa Bạch Ốc họ sẽ xé ngay bản hiệp ước với Iran mà chính quyền Obama
đã ký.
Một bản hiệp ước bị
chống đối ồn ào suốt một năm, nay sẽ được chính thức thi hành, không kèn, không
trống! Tổng Thống Barack Obama, sẽ mãn nhiệm vào năm 2017, có thể coi đây là một
di sản quan trọng trong cuộc đời chính trị của mình hay không, điều này còn tùy
thuộc Iran có thi hành đúng theo thỏa ước trong mười năm tới hay không. Nhưng
ngay bây giờ bàn cờ chính trị vùng Trung Ðông bắt đầu chuyển động với việc thi
hành bản hiệp định hạn chế năng lượng hạch tâm của Iran. Bang giao giữa Mỹ và
các nước Israel, Iran, các vương quốc Á Rập trong vùng sẽ diễn biến theo một kịch
bản mới. Thủ tướng Israel và các lãnh tụ Cộng Hòa ở Quốc Hội đã thua một bước;
ông Obama đã thắng một bước nhờ những nước đi khôn khéo trong cuộc cờ nội bộ và
ngoại giao.
Trong nội bộ nước Mỹ,
vào Tháng Tư năm 2015, các đại biểu Cộng Hòa chiếm đa số trong Quốc Hội đã tính
trói tay không cho ông Obama họp với Iran bàn chuyện Iran không chế tạo bom
nguyên tử để đổi lại được ngưng cấm vận kinh tế. Tháng Năm, ông Obama “nhượng bộ”
để cơn sóng chống đối lắng đi. Ông ký một đạo luật do Quốc Hội thông qua theo
đó Tòa Bạch Ốc phải đưa bất cứ hiệp ước nào với Iran cho Quốc Hội cứu xét,
trong vòng 60 ngày sau khi ký kết, và Quốc Hội có quyền bác bỏ toàn bộ. “Nhượng
bộ” này chỉ là một bước lùi chiến thuật.
Bản hiệp ước ký vào
giữa Tháng Bảy, sau đó Tòa Bạch Ốc đã chuyển sang cho Quốc Hội. Trong tháng qua
Hạ Viện đã thông qua một nghị quyết bác bỏ Iran Deal, nhưng Thượng Viện thì
không thể làm gì được, vì có 42 nghị sĩ Dân Chủ không muốn đưa vấn đề vào nghị
trình. Tại Thượng Viện, một vấn đề chỉ được biểu quyết nếu có ít nhất 60 trong
số 100 nghị sĩ đồng ý. Sáng Thứ Năm, 17 Tháng Chín, Thượng Viện Mỹ cố gắng lần
chót, đề nghị một “tu chính án” đặt điều kiện Iran phải công nhận quốc gia
Israel trước khi Mỹ ngưng các cuộc phong tỏa kinh tế, để cho bản hiệp ước không
thể thi hành được. Tu chính án này chỉ được 56 phiếu ủng hộ, 42 nghị sĩ Dân Chủ
vẫn chống.
Ðây là một bài học về
chính trị nước Mỹ: Trong các vấn đề ngoại giao, hành pháp có thế mạnh hơn lập
pháp, nếu Quốc Hội không thể ngăn cản bằng quyền chuẩn chi ngân sách. Hiệp ước
Hạch tâm Iran không cần một ngân sách mới nào để thi hành.
Trong thực tế, bản hiệp
ước được năm cường quốc khác cùng Mỹ ký kết với Iran. Lại thêm Cơ quan Nguyên tử
năng Liên Hiệp Quốc (IAEA). Nếu nước Mỹ rút ra thì các nước Anh, Pháp, Ðức,
Trung Quốc và Nga vẫn có thể tiếp tục tôn trọng, và họ đã bắt đầu các bước để
thi hành rồi. Năm nước trên sẽ ngưng cấm vận kinh tế Iran, và IAEA sẽ làm công
việc thanh tra, giám sát. Tức là nếu Quốc Hội Mỹ thành công trong việc xóa bỏ
hiệp ước này thì nước Mỹ sẽ chỉ đứng bên lề coi các nước khác và Iran thi hành
nó ra sao. Iran sẽ được hưởng các ích lợi sau khi được năm nước bỏ cấm vận. Tất
nhiên Mỹ tiếp tục cấm vận sẽ khiến mối lợi mà Iran được hưởng nhỏ hơn, nhưng ảnh
hưởng của nước Mỹ trong cả quá trình “giải giới hạch tâm” của Iran qua hiệp định
này sẽ không còn nữa. Cơ quan IAEA sẽ tiếp tục thanh tra tất cả các cơ sở năng
lượng hạch tâm của Iran, kể cả các khu quân sự ở Parchin. Hầu hết các thanh tra
của IAEA đều được huấn luyện tại phòng thí nghiệm Los Alamos của Mỹ.
Cũng trong thực tế,
dù bản hiệp định được thi hành, chính phủ Mỹ chưa bãi bỏ hết các biện pháp cấm
vận Iran. Vì bản hiệp định này chỉ bãi bỏ những biện pháp cấm vận được đặt ra gần
đây, liên hệ tới các hoạt động năng lượng hạch tâm của Iran. Trước đó, Quốc Hội
và chính phủ Mỹ đã ban hành các biện pháp cấm vận về vấn đề khác, vì chính phủ
Iran vi phạm nhân quyền hoặc trợ giúp các “tổ chức khủng bố.” Các biện pháp đó
vẫn tiếp tục còn hiệu lực.
Bản hiệp định có ngăn
cản không cho Iran chế tạo vũ khí hạch tâm hay không, kết quả chỉ có thể biết
sau mươi năm thi hành. Nhưng nếu không ký thỏa ước này thì chính phủ Obama chỉ
có hai con đường để chọn: Giữ nguyên trạng không làm gì hết; hoặc bật đèn xanh
cho Israel đánh bom các lò nguyên tử của Iran như họ đã làm ở Iraq xưa kia và ở
Syria sau này.
Con đường tiếp tục cấm
vận sẽ khiến dân Iran sẽ nghèo hơn, nhưng chắc chắn không nghèo bằng dân Bắc
Hàn; chính phủ Iran nếu muốn vẫn có thể làm bom. Về con đường thứ hai, giới tướng
lãnh Israel cũng thấy việc đánh bom Iran chỉ có thể gây khó khăn nhưng không
ngăn cản hoàn toàn được Iran chế bom nguyên tử. Cả Mỹ và Israel không nước nào
muốn đưa quân tới đánh chiếm Iran, sau kinh nghiệm ở Iraq. Cho nên, một bản hiệp
định với Iran là con đường tốt hơn cả, nếu nước Mỹ muốn duy trì ảnh hưởng trong
vùng Trung Ðông.
Trong vấn đề Iran,
quyền lợi của Mỹ và Israel không giống nhau. Ðối với Israel, Iran là một mối đe
dọa sinh tử. Israel chấp nhận sống trong tình trạng xung đột thường xuyên, miễn
sao tất cả các nước khác trong vùng Trung Ðông đều suy yếu, hai phái Shia A và
Sun Ni, tiếp tục đánh giết lẫn nhau, các nước Á Rập và Iran không hòa thuận.
Israel đã tồn tại hơn nửa thế kỷ vừa qua trong tình trạng như vậy, và có thể tiếp
tục trong hàng thế kỷ nữa.
Nước Mỹ phải quan tâm
đến những vấn đề lớn trong phạm vi rộng hơn nhu cầu của quốc gia Israel. Trong
một vùng Trung Ðông đang biến chuyển và sẽ có nhiều đảo lộn trong vòng 20, 30
năm sắp tới không thể nào tránh được, nếu nước Mỹ muốn giữ được ảnh hưởng quyết
định thì tốt nhất phải thêm bạn, bớt thù, tìm cách nói chuyện được với tất cả
các thế lực đang lên.
Trong bài diễn văn nhậm
chức năm 2009, ông Obama đã nói sẵn sàng tuyên bố chuyện với cả thế giới Hồi
Giáo. Năm 2011, Obama cử Nghị Sĩ John F. Kerry tới vương quốc Oman, nhờ họ làm
môi giới nói chuyện với Iran. Hai viên chức ngoại giao Mỹ cao cấp, William
Burns và Jacob Sullivan, bí mật gặp các sứ giả của Iran tại Oman trong năm
2012, nhiều cuộc gặp gỡ khác tiếp theo. Năm 2013, dân Iran bầu một vị tổng thống
mới, Hassan Rouhani có thái độ ôn hòa hơn. Obama gửi thư cho Rouhani đề nghị
nói chuyện về bom nguyên tử, Rouhani nhận lời; bắt đầu các cuộc thương lượng bí
mật bàn vào chi tiết. Cùng lúc đó, Mỹ vận động các nước Châu Âu cùng thi hành
các biện pháp cấm vận, bằng cách tiết lộ các chi tiết tình báo về những lò
nguyên tử trong hầm sâu của Iran, khiến các nước lo ngại. Khi Châu Âu cũng cấm
vận, kinh tế Iran bị đẩy vào cảnh suy thoái vì không bán được dầu lửa và ngoại
thương đình đốn vì bị phong tỏa tài chánh. Năm 2013, sau khi ông Kerry lên làm
ngoại trưởng, một thỏa ước tạm thời đã ký kết làm khung. Sau cùng, chính phủ Mỹ
lôi kéo được cả bốn nước khác trong Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào một cuộc
hội đàm với kết quả là bản thỏa hiệp đang bắt đầu thi hành.
Mặc dù chống đối tới
cùng nhưng Thủ Tướng Netanyahu của Israel có đóng góp trong quá trình này. Với
những lời tuyên bố nẩy lửa đe dọa đánh bom Iran, ông đã khiến cho các nước Nga,
Trung Cộng và Châu Âu đều thấy cần phải đạt được một thỏa hiệp trước khi quá trễ,
can không nổi. Kết quả sẽ thế nào trong mười năm tới, tất nhiên sẽ phải xem hồi
sau mới rõ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét