Biên dịch: Hoài Phi
& Vy Huyền
Chiến dịch tranh cử
thủ tướng của ông Ngô Đình Diệm, 1953-1954
Quyết định rời Hoa Kỳ
đến châu Âu tháng 5 năm 1953 của Ngô Đình Diệm là một bước khởi đầu trong ván cờ
chính trị mới. Mặc dù cuộc chiến ở Đông Dương vẫn ở thế bế tắc, ông và những đồng
minh của ông nhận thấy có sự thay đổi chính trị mà họ hy vọng rằng sẽ có lợi
cho ông. Nhờ vị trí thuận lợi của mình ở Sài Gòn, Ngô Đình Nhu nhận thấy rằng
những nhà quốc gia không cộng sản đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến
lược giành độc lập trong Liên hiệp Pháp của Bảo Ðại. Bốn năm kể từ ngày ký kết
Hoà ước Elysée, Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, và với
Paris, Quốc gia Việt Nam nhiều nhất là độc lập trên danh nghĩa. Đa số người quốc
gia thất vọng với Thủ tướng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Tâm, một người có tiếng
là thân Pháp và chuyên quyền. Cuối cùng, những người quốc gia đã nổi giận vì
quyết định đơn phương của Paris trong việc phá giá đồng bạc Đông Dương vào đầu
tháng 5 năm 1953, một hành động vi phạm những thoả thuận trước đó với các Quốc
gia Liên hiệp, đồng thời làm gia tăng lạm phát và khó khăn ở Đông Dương. [1]
Khi những bất mãn với Pháp và Bảo Đại tăng cao, anh em họ Ngô ý thức được rằng
thời gian đã chín muồi để có thể đưa ra ván cược quyền lực mới.
Khi lập kế hoạch, Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đều biết rằng phải đi những nước thận trọng. Họ cần
phải làm cho Bảo Đại và chiến lược tìm độc lập qua nhượng bộ từng phần của ông
ta bị mất uy tín; tuy nhiên, họ cũng phải tránh phê phán trực tiếp cựu hoàng, nếu
không, e rằng Bảo Đại khi quá tức giận sẽ từ chối việc ứng cử của Ngô Đình Diệm
ngay từ ban đầu. May mắn cho anh em họ, các sự kiện vào mùa hè 1953 đem lại
chính những cơ hội mà họ cần. Đầu tháng Bảy, chính phủ Pháp đề nghị một vòng thảo
luận mới với các Quốc gia Liên hiệp nhằm “hoàn thiện” nền độc lập của họ trong
Liên hiệp Pháp. Nếu như người Pháp đưa ra đề nghị này vào năm 1949 hay 1950, nó
có thể được coi là sự công nhận từng bước lập trường của Bảo Đại; tuy nhiên,
vào thời điểm năm 1953, các đề nghị thương thảo thêm dường như chỉ đổ thêm dầu
vào nỗi âu lo của những người quốc gia về ý định chân thành của người Pháp.
Trong hàng loạt những
buổi họp với những lãnh đạo phe quốc gia vào tháng Bảy và tháng Tám, Ngô Đình
Nhu khéo léo khơi gợi những mối lo âu của họ. Làm việc với Nguyễn Tôn Hoàn của
Đại Việt – người, như đã nói ở trên, đã cộng tác với Ngô Đình Diệm một thời
gian ngắn trong năm 1947-1948 trước khi Quốc gia Việt Nam thành lập – Ngô Đình
Nhu đã úp mở ý tưởng triệu tâp Đại hội Đoàn kết không chính thức tại Sài Gòn
vào đầu tháng Chín, sau khi Bảo Đại rời Việt Nam đi Pháp. Ý tưởng về Đại hội
nhanh chóng được nhiều người quốc gia, trước đây nổi tiếng theo phe Bảo Đại, ủng
hộ; ngoài ông Nguyễn Tôn Hoàn của Đại Việt, những người này gồm có lãnh đạo Cao
Đài Phạm Công Tắc, tướng Trần Văn Soái của Hoà Hảo, Tướng Lê Văn Viễn của Sài
Gòn (Bảy Viễn Bình Xuyên) và một số nhân vật Công giáo quan trọng. Bên cạnh đó,
một số nhóm trước đó đã ngừng ủng hộ Bảo Đại và Quốc gia Việt Nam (chẳng hạn Đồng
minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng thuộc phe quốc gia, và một số tổ chức Phật
giáo) cũng đồng ý tham dự Đại hội. Tướng Viễn bằng lòng để sự kiện này tổ chức ở
Bình Xuyên, Sài Gòn. [2]
Đại hội Đoàn kết ngày
5, 6 tháng 9, 1953 là một sự kiện hỗn độn. 55 đại biểu có mặt đã tham gia ký
xác nhận bản tuyên bố phản đối mạnh mẽ chính sách độc lập từng phần của Bảo Đại.
Tuy nhiên, ngay sau khi bản tuyên bố được ký, những người tham dự bắt đầu tranh
cãi về những ẩn ý của bản tuyên bố này. Tướng Viễn e ngại rằng Đại hội sẽ vượt
khỏi khả năng kiểm soát, nên chỉ sau hai ngày, đã quyết định kết thúc sự kiện
này sớm bằng việc đóng hội trường. Phạm Công Tắc của Cao Đài, người trước đó đã
phê phán nặng nề Bảo Đại trong những nhận xét công bố trước cuộc họp, giờ đây
cùng với những thủ lĩnh của Bình Xuyên và Hoà Hảo gởi điện tín tới cựu hoàng để
tái khẳng định sự trung thành của ba nhóm này đối với Quốc gia Việt Nam. Trong
khi đó, Ngô Đình Nhu tuyên bố rằng Đại hội đã tạo ra một tổ chức chính trị mới
với tên gọi Phong trào Đại đoàn kết và Hoà bình; tuy nhiên, ông cũng thận trọng
tránh những lời tuyên bố gay gắt chống Bảo Đại và phủ nhận việc Đại hội đã chọn
được lập trường chính trị chính thức. [3]
Về việc xây dựng liên
minh, Đại hội Đoàn kết là một thất bại. Tuy nhiên, vì với Ngô Đình Nhu và Ngô
Đình Diệm, sự kiện này chủ yếu chỉ để chiếm lấy quyền hành từ tay Bảo Đại, nên
trong trường hợp này, Ðại hội là một thành công rực rỡ. Từ Pháp, Bảo Đại muốn
giành lại vị thế chính trị nên đã tuyên bố rằng một “Hội nghị Quốc gia” chính
thức sẽ được tổ chức ở Sài Gòn vào tháng Mười năm đó. Những lãnh đạo cấp cao của
Cao Đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên ngay lập tức đồng ý tham dự, cùng với đại diện của
những nhóm quốc gia khác. Tuy nhiên, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông cố
ý vắng mặt trong trong buổi họp ngày 12 tháng 10, 1953. Ban đầu, Hội nghị có vẻ
nhằm đưa ra phê chuẩn như dự định ủng hộ Bảo Đại và chính sách của ông. Tuy
nhiên, ngày 16 tháng 10, các đại biểu bất ngờ phê chuẩn quyết định bác bỏ sự tham
dự vào Liên hiệp Pháp và ủng hộ việc “độc lập hoàn toàn”. Dù rằng sau đó các ủng
hộ viên trung thành Bảo Đại đạt được một thoả thuận bổ sung vào những tuyên bố
chống đối trước đó, rằng một Việt Nam độc lập sẽ không thuộc Liên hiệp “như
trong hình thức hiện tại”, nhưng những tổn thất chính trị đã xảy ra. Mục đích của
Hội nghị Quốc gia là để chứng tỏ sự ủng hộ của phe quốc gia dành cho Bảo Đại,
nhưng thay vào đó, nó lại cho thấy mức độ bất mãn của những người này đối với Bảo
Đại và chính sách của ông. [4]
Ngô Đình Diệm và Ngô
Đình Nhu không tham gia Hội nghị tháng Mười, vì hiển nhiên họ sợ rằng việc tham
gia của họ sẽ kéo thêm sự ủng hộ cho Bảo Đại. [5] Tuy nhiên, ngay sau đó, họ
khám phá rằng, kết quả bất ngờ của hội nghị buộc Bảo Đại phải thân thiện hơn với
Ngô Đình Diệm và cân nhắc lại khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Đầu
tháng 10, trước khi Hội nghị Quốc gia khai mạc, Bảo Đại có một cuộc gặp riêng với
Ngô Đình Diệm ở Paris; đó là cuộc gặp mặt trực tiếp đầu tiên của họ trong vòng
bốn năm. [6] Sau khi Hội nghị tan rã, cựu hoàng càng trở nên hoà hoãn hơn.
Trong cuộc gặp mặt lần thứ hai với Ngô Đình Diệm ở Cannes ngày 26 tháng 10, Bảo
Ðại thăm dò khả năng bổ nhiệm Ngô Đình Diệm vào chức thủ tướng với việc thẩm vấn
“giả định” về thiện ý phụng sự của Ngô Đình Diệm. [7] Cựu hoàng hoãn lại quyết
định về Ngô Đình Diệm vài tháng sau đó; tuy vậy, đến cuối năm 1953, ván cờ của
anh em họ Ngô rõ ràng đã giành phần thắng lớn. Uy tín và vị thế của Bảo Đại với
toàn dân thấp đến mức kinh khủng. Thái độ chống Pháp kiên quyết của Ngô Đình Diệm,
ngược lại, có vẻ rất hợp với phương hướng chung của chính kiến quốc gia ở Sài
Gòn, và vì vậy nó dường như bỗng nhiên trở thành điều mà cựu hoàng không thể
thiếu được.
Những tháng sau Hội
nghị tháng Mười, áp lực với Bảo Đại tiếp tục tăng lên, trong khi Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu tiếp tục mở rộng lợi thế của họ. Tháng 12, 1953, Bảo Đại nhượng
bộ những than phiền của phe quốc gia và cách chức Thủ tướng chuyên quyền Tâm. Bằng
việc thay thế chính phủ của Nguyễn Văn Tâm với nội các lâm thời dưới quyền của
Hoàng tử Bảo Lộc, một thành viên của hoàng tộc, Bảo Đại hy vọng kéo dài thời
gian để tìm cách giành lại sự ủng hộ của thần dân. Thời cơ giờ đây là vàng bạc,
và anh em họ Ngô đã không bỏ lỡ. Vào đầu tháng 3, 1954, sau khi Bảo Đại chấp
thuận trên nguyên tắc việc thành lập Quốc hội mới, Nhu và những đồng minh của
ông xuất bản một bài viết ở Sài Gòn, trong đó, họ tuyên bố chiến thắng và đồng
thời thúc ép nhượng bộ thêm. Nước cờ này khơi mào cho sự phân chia giữa phe
phái những người quốc gia; trong khi một số thủ lĩnh theo Bảo Đại, một số nhóm
trong nội bộ của Cao Đài, Hoà Hảo và Đại Việt lại công khai ủng hộ Ngô Đình Nhu
và những đòi hỏi “cách mạng dân tộc chủ nghĩa” của ông. [8]
Khi những đấu đá
chính trị ở Sài Gòn tăng cao, tin từ miền Bắc vào giữa tháng Ba cho hay Việt
Minh đã vây hãm căn cứ của Pháp ở Điện Biên Phủ. Tin này, cùng với việc chính
phủ Pháp đồng ý đàm phán về vấn đề Đông Dương tại hội nghị các Cường quốc ở
Geneva, lập tức biến khả năng người Pháp rút khỏi Việt Nam thành điều sắp xảy
ra. Tại Paris, Bảo Đại cảm thấy rằng ông đang hết những lựa chọn. Khi vị thế của
người Pháp ở Điện Biên Phủ trở nên bấp bênh, cựu hoàng chuyển lời đến Ngô Đình
Diệm qua người em út của ông là Ngô Đình Luyện. Điện Biên Phủ rơi vào tay Việt
Minh ngày 7 tháng 5, 1954; vài ngày sau đó, Ngô Đình Diệm đến Paris để gặp Bảo
Đại lần nữa. Theo những gì được biết sau này, Ngô Đình Diệm rất e dè; ban đầu,
ông làm như không hề quan tâm đến chức vụ thủ tướng. Bảo Đại buộc phải để nghị
Ngô Đình Diệm đến lần thứ hai, khẩn nài Diệm rằng “sự bảo vệ cơ đồ Việt Nam tuỳ
thuộc vào việc này”. [9]
Những sự kiện xảy ra ở
Sài Gòn và Pháp trong suốt thời gian 1953-1954, và vai trò liên quan của Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu là những mấu xích quan trọng giúp chúng ta hiểu con
đường đến quyền lực của Ngô Đình Diệm và việc người Mỹ được cho là đã tham gia
vào việc đảm bảo cho Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm. Từ lâu nay, mọi người quả quyết
rằng những quan chức Hoa Kỳ đã bí mật áp lực Bảo Đại chọn Ngô Đình Diệm. [10]
Tuy nhiên, sử gia David L. Anderson chỉ ra rằng, vào đầu năm 1954, những quan
chức cấp cao của chính quyền Eisenhower chỉ “biết mơ hồ” về Ngô Đình Diệm, và
những tài liệu chính thức của Hoa Kỳ không cung cấp bằng chứng những cáo buộc rằng
Hoa Kỳ tổ chức chiến dịch ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thay vào đó, Anderson lập luận
rằng quyết định của Bảo Đại được hình thành chủ yếu bởi niềm tin của ông rằng
Quốc gia Việt Nam cần có sự ủng hộ của Hoa Kỳ để tiếp tục tồn tại, và Bảo Ðại
cho rằng Ngô Đình Diệm là một lãnh đạo có khả năng nhất để bảo đảm được sự ủng
hộ này. [11] Những khẳng định của Anderson ban đầu có vẻ chỉ có tầm quan trọng
tương đối nhỏ, nhưng nó trở nên lớn dần trong những tranh luận sau đó về nguồn
gốc và tiến triển của việc can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong thập niên
1950.
Những bằng chứng ở
đây cho thấy rằng giải thích của Anderson là đúng nhưng không trọn vẹn. Ngoài
những lý do của tình hình thế giới, quyết định của Bảo Đại chủ yếu được hình
thành bởi những tiến triển chính trị tại Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1954, những
sự kiện xảy ra đã hợp thức hoá quyết định của Ngô Đình Diệm trong việc giành
quyền độc lập “đúng nghĩa” từ người Pháp. Ngay cả trước khi người Pháp bại trận
tại Điện Biên Phủ, lập trường của Ngô Đình Diệm về vấn đề độc lập hiển nhiên được
ưa chuộng hơn khi so sánh với Bảo Đại. Hơn nữa, Ngô Đình Nhu và những đồng minh
của ông cho thấy một cách thuyết phục rằng Ngô Đình Diệm nắm giữ một tâm điểm
chính trị tại Việt Nam. Như Bảo Đại sau này viết trong hồi ký của mình, sự kính
mến của những người quốc gia dành cho anh em họ là phần quan trọng trong bàn
tính chính trị của ông:
“Từ những gì tôi biết
về ông, tôi biết rằng ông Diệm là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng
tín và xu hướng thiên về Thiên Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại,
không có một lựa chọn nào tốt hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá
cao tính không khoan nhượng của ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với
chức vụ đó nhất, và Washington sẽ không dè xẻn trong việc ủng hộ ông. Bởi vì
quá khứ [của ông Diệm] và bởi vì sự hiện diện của người em ông ở vị trí hàng đầu
của “Phong trào Công đoàn Quốc gia”, ông sẽ có được sự cộng tác của những người
quốc gia thế lực nhất, những người đã hạ bệ ông Tâm và ông Bửu-Lộc. Cuối cùng,
cũng vì tính không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông là người ta có thể
trông cậy được trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đúng, ông chính là người
cần thiết cho hoàn cảnh như vậy.” [12]
Đến giờ này, các sử
gia vẫn chưa tìm ra được một tài liệu bằng chứng nào cho việc Hoa Kỳ đã bí mật
đưa Ngô Đình Diệm vào chức vụ thủ tướng vào mùa xuân 1954, nhưng cho dù có một
âm mưu như vậy đã được ấp ủ và thi hành, nó cũng không ảnh hưởng nhiều đến quyết
định của Bảo Đại. Vào tháng 5, 1954, Bảo Đại đã bị các sự kiện áp đảo và bị Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vượt mặt về chiến thuật. Ông hầu như không còn lựa chọn
nào khác ngoài việc giao cho Ngô Đình Diệm chức thủ tướng với những điều kiện
mà Ngô Đình Diệm đã đòi hỏi từ lâu: Quốc gia Việt Nam phải có “toàn quyền”
trong mọi khía cạnh của chính phủ, quân sự và kinh tế.
Ngày 16 tháng 6, 1954
– đúng năm năm kể từ ngày công bố bản tuyên ngôn cho một hướng đi khác đến
“cách mạng xã hội” – Ngô Đình Diệm chính thức đồng ý thành lập nội các, và vì vậy
trở lại với chính trường lần đầu tiên kể từ năm 1933. Với Ngô Đình Diệm, người
đã cam chịu nhiều thất vọng chính trị qua gần một thập kỷ, đây là thời điểm
hoàn toàn chính đáng cho sự trở lại. Chắc chắn rằng, Ngô Đình Diệm quá kinh
nghiệm với những thăng trầm của nền chính trị Đông Dương để có thể tin rằng chiến
thắng của ông là trọn vẹn, hay được bảo đảm thành công về mặt lâu dài. Ngược lại,
ông biết rằng việc ông được bổ nhiệm không đem lại cho ông gì hơn một cơ hội để
nắm lấy những nhiệm vụ to lớn và đầy đe doạ mà chính phủ Quốc gia Việt Nam đang
đối mặt. Dù sao, Ngô Đình Diệm giờ đây đã có những mở đầu chính trị mà ông quyết
tìm kiếm từ lâu, và ông phấn khích với những gì đạt được. “Thật thế, giờ phút
này là giờ phút quyết định”, ông đã tuyên bố như vậy ngay sau khi quyết định bổ
nhiệm được thông báo. [13] Như những sự kiện cho thấy, những quyết định trong
hai năm 1954-1955 quả thật đã có những hệ quả sâu sắc cho Việt Nam và cho tất cả
những cường quốc muốn gây ảnh hưởng ở đất nước này. Do bởi tính kiên trì, nhẫn
nại, lập kế hoạch, tranh thủ cơ hội và dự phần không nhỏ của may mắn, cuối cùng
Diệm giành được cơ hội để định hướng cho đa số những quyết định đó. Đó là vai
trò của cả một cuộc đời, và ông đã đặt cược đến cùng.
Kết luận
Khi Ngô Đình Diệm về
Sài Gòn vào ngày 25 tháng 6, 1954 với cương vị Thủ tướng [được chỉ định] của Quốc
gia Việt Nam, nhiều người ở Việt Nam và khắp nơi nghĩ rằng nhiệm kỳ của ông sẽ
sớm kết thúc. Quốc gia mà ông đang nắm quyền vẫn còn hoạt động chủ yếu theo mệnh
lệnh của những quan chức thuộc địa Pháp, những người có thái độ từ cam chịu chấp
nhận đến thù địch trước việc ông Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm. Trong khi đó, những
quan chức Hoa Kỳ lại phân chia rõ rệt trong việc nên hay không nên ủng hộ ông.
Nếu Ngô Đình Diệm không thể dựa vào ủng hộ của bên ngoài để giữ vững chức vụ,
ông cũng không thể trông mong gìn giữ vai trò lãnh đạo đơn giản bằng việc lôi
kéo các lực bẩy của quyền lực quốc gia. Quân đội Quốc gia Việt Nam được chỉ huy
bởi những tướng lãnh thân Pháp, là những người rất nghi ngờ Ngô Đình Diệm. Uy
quyền của Quốc gia Việt Nam đa số chỉ giới hạn ở những thành thị lớn của Việt
Nam, và vùng nông thôn là những mảng độc lập không chính thức của các thủ lĩnh.
Ngay cả ở Sài Gòn, quyền lực của Ngô Đình Diệm cũng bị hạn chế vì lực lượng cảnh
sát địa phương đều thuộc quyền kiểm soát của Bình Xuyên. Chỉ vài tuần sau khi
nhận chức, phạm vi quyền lực của ông lại bị thu hẹp bởi tuyên bố rằng người
Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được thoả thuận ở Geneva, chia đôi Việt
Nam thành hai miền nam bắc trước cuộc tổng tuyển cử năm 1956 – một cuộc tuyển cử
được nhiều người dự đoán là phe cộng sản sẽ giành phần thắng.
Bất chấp những việc xảy
ra, vị thế của Ngô Đình Diệm không vô vọng như mọi người thấy. 18 tháng tiếp
theo đó, ông tập hợp lại quân đội, dẹp tan những bè phái kình địch, trục xuất Bảo
Đại và tuyên bố sự thành lập một quốc gia miền Nam Việt Nam mới mà ông giữ chức
Tổng thống. Một thảo luận đầy đủ về việc Ngô Đình Diệm đã làm thế nào để có thể
bất chấp những dự tính (của các phe phái khác) và củng cố uy quyền của ông
trong thời gian 1954-1955 nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này; dù vậy, những
lập luận được đưa ra ở đây cho thấy những gì mọi người biết về ông và những
cách để ông giữ vững được quyền lực của mình sau năm 1954 cần phải được xem xét
lại. Có ba điểm đặc biệt rõ ràng.
Đầu tiên, vào thời điểm
tiến đến chức vụ thủ tướng, Ngô Đình Diệm không hề thiếu những đồng minh tại Việt
Nam như mọi người lầm tưởng. Ngoài những người Công giáo ủng hộ ông, ông còn có
những ủng hộ từ những nhóm và những lãnh đạo không Công giáo quan trọng khác,
phần lớn nhờ vào những cố gắng của các anh em của ông trong giai đoạn ông sống
lưu vong. Những hoạt động của Ngô Đình Nhu trong suốt thời gian đầu những năm
1950 (như việc thành lập đảng Cần Lao và việc thu nhận những công đoàn lao động
của Trần Quốc Bửu) đặc biệt quan trọng, bởi vì chúng đem đến những phương tiện
để Ngô Đình Diệm có thể vận động sự ủng hộ trong suốt những tháng đầu tiên đầy
xáo trộn sau khi ông lên nắm quyền.
Thứ hai, trong năm
1954, Ngô Đình Diệm không hề chú ý đến Hoa Kỳ hay có khuynh hướng đi theo những
lời khuyên của người Mỹ. Không có bằng cớ nào chứng tỏ rằng Ngô Đình Diệm được
bổ nhiệm nhờ một chiến dịch gây áp lực (với Bảo Ðại) do những quan chức Hoa Kỳ
khởi xướng. Thay vào đó, ông nắm được chức thủ tướng là nhờ vào chuỗi tập hợp
những vận may và việc ông cẩn trọng kết hợp tất cả những hoạt động của ông với
hoạt động của những người ủng hộ ông ở Đông Dương. Vì Ngô Đình Diệm không lệ
thuộc vào sự ủng hộ của người Mỹ hay theo những chỉ định của người Mỹ trước
tháng 6, 1954, không có lý do gì để cho rằng ông lập tức dựa vào các quan chức
Hoa Kỳ sau ngày đó. Lên nắm quyền nhờ vào những cố gắng cá nhân của ông và của
các anh em ông, ông Ngô Đình Diệm không có khuynh hướng theo Hoa Kỳ về chính
sách và chiến lược chính trị. Ngược lại, trở lại Sài Gòn với quyết tâm hơn bao
giờ để đi theo quyết định của mình và để tiến hành những dự định nhằm củng cố
và mở rộng quyền lực, chúng ta cần lưu ý đến xu hướng chỉ dùng những quyết định
của riêng mình của Ngô Đình Diệm khi phân tích những sự kiện xảy ra sau năm
1954, và đặc biệt khi đánh giá quan hệ của ông với các quan chức Hoa Kỳ.
Cuối cùng, những lời
nói và việc làm của Ngô Đình Diệm trong suốt giai đoạn 1945-1954 cho thấy sự bất
hợp lý khi cho rằng ông là nhân vật “truyền thống”, người không muốn hiện đại
hoá và phát triển. Mặc dù ông có thiên hướng vận động ngầm, Ngô Đình Diệm nhận
biết rằng thành công hay thất bại cuối cùng của thể chế mới của ông cần xoay
quanh nhiều việc khác hơn là chỉ đặt những kế hoạch và phi vụ bí mật. Trong bài
diễn văn đầu tiên của mình sau khi trở về Sài Gòn, Ngô Đình Diệm tái khẳng định
rằng mục tiêu của ông là đề xướng thay đổi cách mạng ở Việt Nam.
“Trước một thời cơ khẩn
cấp, tôi sẽ hành động quyết-liệt. Tôi sẽ cương-quyết vạch ra một đường lối cứu-quốc.
Một cuộc cách-mệnh toàn diện sẽ được thực hiện trong hết mọi ngành tổ-chức và
sinh-hoạt quốc-gia.” [14]
Trong những tuyên bố
trước đó về những điều này, viễn kiến về cuộc cách mạng mà Ngô Đình Diệm đưa ra
vào tháng 6 năm 1954 vẫn còn đang ở mức ban đầu và mơ hồ. Nhưng dù sao, nó vẫn
là một viễn kiến, và ông đã đặt cược thành công của chính thể mới vào khả năng
thi hành viễn kiến này của mình. Với sự giúp đỡ của Ngô Đình Nhu, hướng đi của
Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên chi tiết và tỉ mỉ hơn vào thời gian sau đó. Đến
năm 1957, chính thể đã công khai lấy chủ nghĩa Nhân vị làm tư tưởng chính thức
và tuyên bố cuộc “Cách mạng Nhân vị” là mục tiêu tối thượng của chính sách quốc
gia. Như cách chọn sử dụng những từ ngữ này cho thấy, quan điểm của Ngô Đình
Nhu về nhân vị là nhận thức cơ bản cho tư tưởng mới này. Trong suốt thời gian
đó cho đến năm 1963, anh em họ Ngô tiếp tục hoàn thiện tư tưởng mới này, và
chúng có mặt cả trong những chính sách cột trụ của việc xây dựng quốc gia ở những
lãnh vực như phát triển kinh tế, cải cách điền địa và an ninh quốc gia.
Kết cuộc thì cuộc
Cách mạng Nhân vị đã không được thực hiện. Như những người chống Ngô Đình Diệm
(và thậm chí cả nhiều người ngưỡng mộ ông) cho biết, hệ tư tưởng của Ngô Đình
Diệm về chủ nghĩa Nhân vị không chỉ phức tạp mà còn hết sức trừu tượng và thường
quá dày đặc để có thể lĩnh hội được. Mặc dù nó cung cấp tài liệu và hình thành
chính sách của chính thể, nó mang quá ít ích lợi khi dùng làm phương tiện để tạo
ra sự ủng hộ cho những chính sách này. Tuy nhiên, khi nói rằng hướng đi của Ngô
Đình Diệm không thực hiện được, không có nghĩa nó không quan trọng, hay cần gạt
bỏ nó như đơn thuần chỉ là ảo tưởng vô vọng của một bạo chúa lạc hậu. Theo nhiều
người Việt Nam và khá nhiều những người Mỹ phát hiện thấy, Ngô Đình Diệm có tài
ghê gớm trong việc truyền cảm hứng cho những người gặp gỡ và lắng nghe ông; việc
ông cũng có khi tẻ nhạt, độc đoán và thậm chí tàn bạo cũng không làm lu mờ đi
khả năng này. Như nhiều nhà lãnh đạo khác, Ngô Đình Diệm kết hợp những tham vọng
quyền lực và viễn kiến của mình bằng nhiều cách phức tạp và đôi khi mâu thuẫn
nhau. Tháo gỡ những phức tạp về chính trị và tư tưởng của ông, vì vậy, là một
bước quan trọng để đi đến việc xem xét lại và hiểu rõ hơn vai trò của ông trong
cuộc đấu tranh lâu dài và rối rắm, để hình thành nên số phận Việt Nam hiện đại./.
***
Edward Miller là giáo
sư khoa Lịch sử, trường đại học Dartmouth.
Nguồn: Edward Miller
“Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Ðình Diệm, 1945–54“, Journal of
Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004, pp 433–458.
http://nghiencuuquocte.net/2015/09/05/con-duong-nam-quyen-ngo-dinh-diem-p3/#
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét