Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019

17678 - Thời Trung học (Chương 3 cuốn tự truyện Gió Mùa Đông Bắc của Trần Ngươn Phiêu)



Kết quả hình ảnh cho hình ảnh trường petrus ký


Đối với một anh học sinh từ tỉnh nhỏ lên Sài Gòn học, Trường Petrus Ký quả thật là một kiến trúc đồ sộ. Được hoàn thành từ năm 1927, trường chiếm một diện tích gần 9 mẫu, mặt quay ra đường Nancy (Cộng Hòa, thời VNCH), đối diện một khoảng xa với hông bên mặt của thành Ô Ma (Camp des Mares). Về phía bên mặt trường là đường Charles Thompson (Nguyễn Hoàng) gần đường xe lửa Sài Gòn- Mỹ Tho.

Hai dãy hai từng song song theo chiều Đông Tây là các lớp học. Hai hành lang phía trước và sau nối liền các lớp học thành một khung hình chữ nhật. Hai bên đầu hành lang, trước cổng, là các phòng nhân viên hành chánh và các phòng giáo sư. Hành lang phía sau là dãy nhà các phòng thí nghiệm Lý, Hóa, Sinh và lớp dạy vẽ. Bốn dãy kiến trúc đó bao vây một sân danh dự lớn có dựng tượng đồng bán thân của nhà bác học Petrus Ký, một nhân tài Việt Nam được liệt kê vào sổ vàng hậu thế kỷ XIX là “Toàn cầu bác học thập bát quân tử”. Sau cuộc đổi đời 1975, tượng đồng bị hạ, trường đổi tên thành Lê Hồng Phong, một nhân vật cách mạng, không dính dáng gì đến văn học Việt!

Về bên phía trái của trường có hai dãy lầu ba từng được sử dụng làm phòng học và phòng ngủ cho học sinh nội trú. Bên sau các phòng thí nghiệm là hai phòng ăn rất rộng cho học sinh nội trú và bán nội trú. Các phòng ăn với diện tích rộng này cũng là nơi để tổ chức các kỳ thi có đông thí sinh hay các buổi sinh hoạt cộng đồng vào các dịp Lễ Tiễn Ông Táo mỗi năm, trước khi về nghỉ lễ Tết, hoặc Lễ Mãn Khóa học cuối năm.

Đời sống nội trú đã cho Triệu có cơ hội gặp được bao nhiêu bạn bè hầu như rải rác khắp miền Nam. Hai năm nội trú ở trường đường Nancy và hai năm sau khi trường phải tạm dời về trường Sư Phạm trước Sở Thú khiến Triệu được biết hầu hết các anh lớn theo học ban Tú Tài, sau đó theo học Đại học ở Hà Nội hay ở ngoại quốc. Về sau, trước khi tốt nghiệp bằng Thành chung, Triệu lại được biết thêm bao nhiêu lớp đàn em.
Những thiên tài âm nhạc như Trần Văn Khê, duyên dáng đánh nhịp hay thổi phong cầm vào các ngày văn nghệ Tết Ông Táo, các anh Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Đặng Ngọc Tốt, Trần Bửu Kiếm... với lý tưởng bồng bột lửa đấu tranh cho nước nhà được độc lập, đã thấy manh nha từ cái lò Petrus Ký. Khi Đệ Nhị Thế chiến bùng khởi ở trời Tây, Huỳnh Văn Tiểng đã đọc một bài phú tiễn đưa lính chiến đi Pháp mà hơn nửa thế kỷ sau Triệu vẫn còn nhớ:

“Nhưng khuyên ai:
Trăng gió dẫu say phong cảnh mới
Nước non đừng lạt cảm tình xưa
Rượu Bordeaux dầu có hương vị thơm tho, phó mát xứ Brie dẫu có mùi thâm thía, nho Grenoble dầu hết sức ngọt ngào,
Cũng xin đừng chê rượu đế nhà ta là vô vị, bánh qui bánh tét thiếu gout, hay nước mắm hòn là dơ dáy....”

Trong số các bạn bè khác, rất nhiều tên tuổi sau này đã thường thấy được nhắc nhở trên các lãnh vực hoạt động ở miền Nam. Đặc biệt sau khi thâu hồi độc lập, phần lớn các hiệu trưởng về sau thời kỳ 1950 đều xuất thân từ Petrus Ký. Nhìn trở lại lịch sử đào tạo trí thức cho miền Nam, ngoài các trường trung học công rất ít oi vì chánh sách ngu dân của Pháp (Bốn trường: Petrus Ký, Nữ học đường, Mỹ Tho và Cần Thơ), các trường tư thục phần nhiều do các nhà cách mạng du học về nước sáng lập, đã góp công lớn trong việc giáo dục thanh niên Nam Bộ. Các trường tư thục vang bóng một thời đã bị nhà cầm quyền Xã Hội Chủ Nghĩa khai tử sau 1975, thật sự rất xứng đáng được nhân dân miền Nam tưởng nhớ ghi công như trường Taberd, Huỳnh Khương Ninh, Lê Bá Cang, Chấn Thanh, Đồng Nai, Nguyễn Văn Khuê, Bassac... và bao nhiêu trường sau này của các tôn giáo sáng lập, thời Việt Nam Cộng Hòa.

Các giáo sư trường Petrus Ký vào thời trước, ngoài những người Pháp hoặc Việt Nam du học tốt nghiệp ở Pháp về, phần đông đều được đào tạo từ Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Triệu vẫn còn nhớ mãi hình ảnh các vị thầy khả kính đã một thời ảnh hưởng sâu đậm đến tương lai của Triệu. Giáo sư Trần Văn Quế, người gốc Tây Ninh theo đạo Cao Đài, dóc vác cao lớn, gương mặt hiền hậu, đầu hớt tóc ngắn là giáo sư dạy Sử, Địa, có một giọng nói đầm ấm, từ tốn, đã khơi dậy lòng ái quốc cho đám thanh niên thời của Triệu. Sau này ông Quế đã bị Pháp bắt đày Côn Đảo và may mắn được trở về đất liền sau ngày Nhật đảo chánh Pháp. Một giáo sư Sử, Địa khác rất say mê nghề trong khi thuyết giảng là Nguyễn Văn Thành đã bị Việt Minh giết vào lúc khởi đầu Nam bộ Kháng chiến.

Giáo sư Phạm Thiều, gốc Nghệ - Tĩnh vừa dạy chữ Nho, nhưng cũng lại dạy toán rất giỏi, là một nhân vật có phong cách nhà Nho, ăn mặc chững chạc, vào lớp lúc nào trước tiên cũng móc trong túi áo chiếc đồng hồ quả quýt, đặt lên góc bàn bên phải và xoay cho dây đeo cuốn tròn chung quanh tươm tất, xong mới bắt đầu dạy. Triệu đã gặp lại Thầy sau này trong thời gian kháng chiến. Lần đầu tiên gặp lại Thầy ở chiến khu Rừng Vĩnh Cửu, Biên Hòa, Triệu mới chợt nhận chân được cái vui tánh hồn nhiên của Thầy. Sau khi hỏi Triệu: “Cậu đi đâu đây?”. Thầy lại vui đùa nhại lời ca “ Nhớ chiến khu” của Đỗ Nhuận và hát: “ Chiều nay lên chiến khu đi gò mèo!”. Thầy đã một thời làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn-Chợ Lớn, Ủy viên Tuyên huấn Ủy ban Hành chánh Nam bộ với biệt hiệu Trường Phong và đã tập kết ra Bắc. Sau 1975, giáo sư được bầu dân biểu thành phố Sài Gòn, nhưng đã thất vọng vì lối cai trị và tham nhũng của cán bộ Cộng sản. Ông đã tự vận chết, sau khi gởi cho Đại hội Đảng Q3, Thành phố Hồ Chí Minh một tuyệt thư:

“ Dốt mà lãnh đạo nên làm Dại.
Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối
Dốt, Dại, Dối, đó là ba điều làm cho các nước Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác”.

Sau đêm chủ nhật 23 tháng 9 năm 1945, mở màn cuộc Kháng chiến Nam bộ, rất nhiều giáo sư như Nguyễn Văn Chì, Nguyễn Văn Chí, Lê Văn Huấn, Phạm Thiều, Nguyễn Văn Trứ, Lê Văn Cẩm... đều bỏ thành vào bưng tham gia chống Pháp. Có một việc cần nêu lên là các giáo sư còn sống và trở lại thành sau 1975, phần đông đã có một đời sống rất khiêm tốn. Các chức vụ béo bở đã được dành cho những người của Đảng Cộng sản. Giáo sư Nguyễn Văn Chì trong thời chiến giữ chức Chủ tịch Ủy ban thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Sau ngày 30 tháng Tư 1975, chức đó phải nhường cho người khác. Giáo sư Chì được giao chức vô thưởng vô phạt: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc. Triệu được một người ở cùng làng Bến Tranh (Mỹ Tho) với giáo sư Chì cho biết tin, là sau 1975, ông đã trở về quê và đã qua đời trong cảnh nghèo xơ xác! 

Sống nội trú bốn năm ở Petrus Ký, Triệu sáng trưa, chiều tối nào cũng phải tiếp cận với các giám thị. Các vị đều xuất thân trong nghành giáo dục nên phong cách rất đặc biệt. Giữa khung cảnh Sài Gòn tân tiến, giám thị Tươi mà Triệu thường ngưỡng mộ nhưng nay đã quên họ, lúc nào cũng mặc áo dài đen, quần vải ta trắng. Phải là người có can trường lắm mới có can đảm mặc quốc phục giữa đám học sinh quỉ quái và các đồng nghiệp vận Âu phục chễm chệ. Thầy Ngữ gốc Bình Dương thì lúc nào cũng vùi vào sách vở, nghiên cứu cách biến chế màu vẽ để bán ra thị trường vì trong xứ lúc ấy không còn màu nhập cảng từ Pháp. Thầy Thấy mắt cận thị nặng, gốc Nha Mân thì say mê nghiên cứu cách nuôi và chọn giống chó berger Đức. Thầy Ruộng người Gia Định, mặt tươi đỏ, thường được học sinh gọi đùa là mặt say rượu, lại là người hay tìm hiểu gốc gác các học sinh ông đang phụ trách. Triệu đã khám phá ra được đặc tính này vào một hôm, trong khi say mê đá banh, một bạn nhỏ dưới lớp Triệu, anh Phan Phục Hổ đã trong cơn phật ý, phát ngôn bừa bãi. Thầy Ruộng gọi lại bảo: “ Ba mầy, ông Phan Văn Hùm vừa là học giả danh tiếng, vừa là nhà cách mạng đang bị tù, mầy phải giữ mồm giữ miệng, làm sao cho xứng đáng là con của ổng”. Phan Phục Hổ đã phải rướm lệ xin lỗi và cám ơn Ông! Trong trận đá nầy, Triệu cũng “xổ nho”, văng tục ngạo bạn, nên cũng bị Ông chỉnh: “Ông Bác, Ông Nội mầy là nhà Nho, người bị đày ở Nha Mân vì Đông Kinh Nghĩa Thục, người đang là Thầy dạy học. Con nhà gia giáo không ăn nói như vậy”. Báo hại từ đó về sau, Triệu luôn luôn phải lưu ý, giữ mồm, giữ miệng, tởn tới già!

Khi Triệu bắt đầu niên học, không khí chiến tranh đã bắt đầu làm dân chúng xao xuyến. Dựa theo thanh thế quân đội Nhật, Thái Lan đã lên tiếng đòi lại đất đai của họ đã bị Pháp lấn chiếm. Thái đã gây hấn, ném bom xuống các vùng Siemréap, Battambang ở Cam Bốt. Sài Gòn đã bắt đầu phải đào hầm trú ẩn. Riêng ở trường, sáng nào cũng có lớp dạy cứu thương và cách đề phòng chống hơi ngạt chiến trận do giáo sư Lê Văn Cẩm phụ trách.

Thật ra đây là những lớp lý thuyết, theo dõi rất ngán. Triệu đã có dịp cho Giáo sư Cẩm biết về việc học sinh miễn cưỡng phải đến lớp. Giáo sư đã trả lời: “Tây nó làm bộ bắt phải dạy. Tôi xin mượn một mặt nạ chống hơi độc cho sinh viên xem, nó có cho mượn đâu. Muốn học thật sự có căn bản, nên ghi tên theo lớp Cứu Thương của Hội Hồng Thập Tự, sau các buổi chiều ở trường”.

Triệu và vài bạn ở Gò Công và Gia Định đã rất thích thú theo dõi các lớp huấn luyện này. Phụ trách dạy là các nữ y tá Pháp của Hội Hồng Thập Tự và các điều dưỡng của Bịnh viện Chú Hỏa (Bịnh viện Đô thành). Lớp học dành cho công chức và thanh niên tình nguyện đến tham gia vào chiều tối, ở một lớp trống sau giờ học của sinh viên. Chẳng những được dạy về băng bó, cứu thương và chích thuốc ở lớp học, Triệu và các bạn lại được các nhân viên điều dưỡng thỏa thuận cho đến phụ giúp việc chích thuốc vào các thứ Bảy và Chủ nhật ở bịnh viện. Vào thời đó chưa có thuốc trụ sinh mà người mang bịnh hoa liễu lại bị khá nhiều. Thuốc chích chữa bịnh chỉ có loại “914” phải chích vào tĩnh mạch. Triệu nhờ thế đã được tha hồ thực tập việc chích thuốc vào gân máu. Sau khi được cấp chứng chỉ cứu thương, Triệu đã thật sự có căn bản để có thể thực sự hành nghề “chích thuốc dạo”sau này!.

Mặc dầu các bạn hữu Triệu đều từ bốn phương đến, Triệu vẫn thích làm bạn với một nhóm nhỏ anh em vì tương đồng ý tưởng hơn. Đó là một số anh em chung quanh anh Trần Thanh Mậu, người làng Vĩnh Lợi, Gò Công. Mậu là em của Trần Thanh Xuân, một sinh viên giỏi đã được học bổng sang Pháp. Vào thời đó, miền Nam có được hai sinh viên đậu Bằng Tú Tài ưu hạng, được chọn du học. Một là Trần Lệ Quang, sau đỗ kỹ sư cầu cống Ponts & Chaussées, Tổng trưởng Công chánh thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Người kia là Trần Thanh Xuân, học kỹ sư về các công trường hàng hải (Ingénieur Maritime), có một thời hoạt động chính trị ở Pháp, thập niên 1940, sau trở về Hà Nội.

Mậu có lẽ được người anh uốn nắn nên mặc dầu tuổi trẻ nhưng thường ưu tư về vận nước đang hồi còn phải chịu sự đô hộ của Pháp. Một số bạn của Mậu từ Gò Công đã biết Mậu từ lâu nên trong các giờ chơi, hay tụ tập kể cho nhau những giai thoại các trận như “Đám lá tối trời”, tức khu Rừng Lá (Gò Công) của Trương Công Định trong thời chống Pháp, về Tổng đốc Lộc, một tay sai của Pháp, hoặc cùng đọc bài “Văn tế các chiến sĩ Cần Giuộc” của Cụ Đồ Chiểu không được ghi trong chương trình Việt văn. Nhiều bạn khác thấy vậy cũng lần lần gia nhập nhóm, đặc biệt là anh Bùi Đức Tâm, con địa chủ giàu có vùng Tân An. Anh Tâm là người biết rõ lịch sử kháng chiến chống Pháp thời Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định, Trần Văn Thành... Anh đã làm nhiều người say mê vì tài kể chuyện. Các địa danh về những cuộc đụng độ ngày xưa, sau này vào lúc xảy ra Kháng chiến Nam Bộ sau 1945, nhiều anh em đi vào bưng đã như quen thuộc tên trước, nhờ nghe được các chuyện của anh Tâm. Sau 1975, có bạn gặp lại anh ở Sài Gòn, sau khi tập kết về, nhưng hình như không được giao chức vụ quan trọng vì là thành phần con địa chủ?

Trần Thanh Mậu và Bùi Đức Tâm là hai anh có nhiều dịp tiếp xúc với các anh em nội trú ban Tú Tài sắp ra trường. Đây là các anh lớn, có nhiều suy tư về thời cuộc, vận nước, đã muốn hun đúc cho đàn em có tin thần quốc gia yêu nước. Tâm và Mậu vì thế đã được móc nối với những người có tâm huyết ở Sài Gòn. Triệu và một số anh em thân tín thường chia phiên đến nhà các nhân sĩ để học hỏi. Luật sư Diệp Ba ở Tân Định là nơi có nhiều tài liệu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ Nhật gởi về. Triệu đã từng được nghe danh Hoàng thân Cường Để, người đã được Phan Bội Châu tổ chức bí mật xuất ngoại sang Nhật. Hoàng thân Cường Để đã có lần can đảm dám trở về xứ, bí mật di chuyển sống trên ghe nhiều tháng ở Nam kỳ để vận động dân chúng. So với Kỳ ngoại hầu Cường Để, Hồ Chí Minh sau ngày rời Việt Nam ở bến Nhà Rồng ngày 5 tháng 6 năm 1911 để đáp tàu Amiral Latouche Tréville sang Pháp, cho mãi đến thập niên 1940, chẳng bao giờ Hồ Chí Minh dám đặt chân trở về xứ để hoạt động. Chỉ đến sau 1940, Hồ Chí Minh mới dám thập thò ở biên giới Hoa Việt trước khi về ẩn trú ở hang Pắc Bó. Qua các tài liệu đọc được ở nhà luật sư Diệp Ba, Triệu được biết có cuộc họp thành lập Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội vào tháng 3 năm 1939. Đức Cường Để được bầu làm Ủy viên trưởng. Những lời kêu gọi của Hoàng thân Cường Để đã được đóng rất khéo, lồng trong các sách Việt hoặc các sách của Thống chế Pétain khi ông này lên cầm quyền ở nước Pháp bại trận. Sau này Diệp Ba lại đổi ý đi theo chủ trương Cộng sản khi Pháp trở lại chiếm miền Nam.

Mặc dầu còn ở tuổi thiếu niên, Triệu và các bạn cũng có dịp chứng kiến những cuộc vận động bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn và Hội đồng Quản hạt. Đặc biệt là cuộc bầu cử ngày 30-4-1939 khi liên danh Tranh Đấu gồm Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch thắng các liên danh Dân Chúng của Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Dương Bạch Mai hay các liên danh Nguyễn Phan Long hoặc Lê Quang Liêm của đảng Lập Hiến. Tên tuổi các nhà làm cách mạng thời đó đã được các bạn Triệu để tâm theo dõi. Triệu nghe theo lời các bạn, đã nhân dịp nghỉ vào các buổi chiều thứ Năm, đến các trường tư như Lê Bá Cang, Chấn Thanh để nghe Tạ Thu Thâu lưu loát dạy Khoa học, hoặc Trần Văn Thạch dạy Pháp văn, Hồ Hữu Tường dạy Toán... Đặc biệt, Triệu say mê các buổi giảng Pháp văn của Trần Văn Thạch vì rất hào hứng với những lời giải thích, phê bình độc đáo so với một giáo sư người Việt có vợ đầm ở Petrus Ký, dạy văn chương Pháp nhưng suốt cả giờ chỉ bàn về văn phạm (grammaire) !

Qua năm sau, vào khoảng tháng Tư, 1940, Triệu và các bạn bàng hoàng đọc tin tòa Sài Gòn xử tù các nhóm Đệ Tam và Đệ Tứ về tội “khuấy rối trị an và lập hội không xin phép”. Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Sâm... đều lãnh án tù từ 5 đến 3 năm cộng thêm 10 năm biệt xứ!

Cuộc sống ở ngôi trường gốc rộng lớn Petrus Ký này đang trôi chảy êm đềm như vậy, phút chốc đã bỗng nhiên bị thời cuộc đưa đến những biến chuyển lớn lao. Vận nước đã bắt đầu thay đổi.

Khoảng tháng 9, 1940, tướng Nhật Nakamura tấn công Pháp tại Lạng Sơn và Đồng Đăng. Hai vị trí này của Pháp đều thất thủ với nhiều thiệt hại. Hải Phòng cũng bị Nhật giội bom cảnh cáo. Triệu và các bạn rất hãnh diện khi được luật sư Diệp Ba cho biết tin là trong cuộc tấn công Lạng Sơn, có sự tham dự bên cạnh Nhật của lãnh tụ Kiến Quốc Quân Việt Nam, tên Trần Trung Lập. Trong Sư Đoàn 5 này của Nhật có một đơn vị phụ lực Việt, do Shibata hay Trần Phước An điều khiển. Trần Trung Lập là một trong các cấp chỉ huy. Về sau, khi Nhật và Pháp điều đình xong việc biến cố Lạng Sơn, Trần Trung Lập quyết định ở lại chống Pháp. Việt Nam Kiến Quốc Quân là bộ phận quân sự của tổ chức Phục Quốc của Cường Để. Trần Trung Lập về sau bị Pháp bắt và kết án tử hình!

Trong khi đó, Thái Lan dựa hơi Nhật đòi Pháp phải định lại biên giới Đông Dương và đòi Pháp phải trả lại tỉnh Battambang. Không khí chiến tranh đã khởi sự bao trùm miền Nam. Các đèn điện ở phòng các sinh viên nội trú đã được sơn xanh dương đậm, hoặc phải có chụp che ánh sáng, theo chương trình Phòng thủ Thụ động.

Anh Bùi Đức Tâm, một chiều Chủ nhật đã về trường cho Triệu và Trần Thanh Mậu một tin mà anh bắt phải tuyệt đối giữ kín, thề không được tiết lộ: “Đảng Cộng sản đã quyết định khởi nghĩa chống Pháp ở một phiên họp ở Bà Điểm”. 

Trong khi đào hầm trú ẩn tránh bom theo kế hoạch Phòng thủ Thụ động ở phần đất trống sau trường, rất nhiều quan tài chôn từ xưa đã được quật lên. Vùng sau trường được dân Sài Gòn đặt tên là vùng mả Ngụy vì nơi đây là mồ chôn tập thể quân lính theo Lê Văn Khôi, con nuôi của Thượng công Lê Văn Duyệt. Lê Văn Khôi đã nổi lên chống triều đình Huế nên đã cùng binh sĩ dưới quyền bị nhà Nguyễn giết không thương tiếc. Thây được chôn vội tập thể ở vùng này, nơi mà dân chúng còn gọi là vùng “ mả loạn”. Về đêm, nhất là khi có mưa, học sinh nội trú Petrus Ký ở lầu cao thường hay có lệ mở cửa sổ để xem “đèn ma” do các chất lân tinh cháy lên từ bãi mả loạn. Một vài bạn có tinh thần địa phương thường hay thốt lên: “Tụi tao không ưa các vua chúa Nguyễn vì họ đã xây được cơ đồ do dân miền Nam, nhưng sau khi thành công đã giết người miền Nam như vậy. Họ còn sợ hình ảnh miền Nam hơn Huế nên đã tháo gỡ thành Sài Gòn, xây nhỏ lại, chuyển vật dụng, kèo cột được chạm trổ, về Huế xây cất dinh thự !”.

Một vài học sinh đã lấy ván đóng hòm vừa được khơi quật, đẽo thành hình trái tim, dưới gắn ba viên đạn tròn để có thể dùng làm bàn “xây ma”. Lúc ban đầu, trong các vụ gọi hồn người chết như vậy, các câu hỏi thường thường thuộc về thời sự, có khi vui nhộn nhưng lần lần về sau, không biết có ai cố tâm không, những câu chuyện gọi hồn lại toàn bàn về lịch sử nước nhà, về các chiến sĩ chết khi chống xâm lăng Pháp. Việc khơi dậy tinh thần thương dân, thương nước trong giới học sinh nội trú đã có thể nói là do các buổi “xây ma”, gọi hồn những nhà ái quốc đã mất này. Vũ khí tuyên truyền độc đáo này không biết có bàn tay bí mật nào chỉ huy không, hay là do tinh thần yêu nước của số đông người tham dự?

Bãi tha ma “mả Ngụy” rộng lớn này còn có được một tên khác là “Đồng tập trận” vì quân đội Pháp ở Thành Ô Ma dùng nơi đây để huấn luyện quân sự. Các buổi tập quân nhạc hay thổi kèn được học sinh thường hay đến xem vì thường xảy ra vào chiều thứ Năm là buổi chiều được nghỉ ra phố của dân nội trú. Còn nhớ một hôm, Triệu và các bạn nghe được một huấn luyện viên người Pháp dạy lính thổi bài kèn tiễn biệt chiến sĩ khi hạ huyệt. Bài có một âm điệu chậm, hơi kèn kéo dài, rất não lòng. Trần Thanh Mậu bổng cao hứng nói cho người huấn luyện viên biết:“ Nơi ông đang đứng là mồ chôn tập thể chiến sĩ Việt, xin ông thổi lại bài tưởng niệm các linh hồn này”. Người huấn luyện viên đã cảm hứng thổi trở lại bài kèn tiễn người quá cố. Anh em chung quanh đã có nhiều người rướm lệ. Từ đó trở về sau, các bạn Triệu đã thấy người huấn luyện viên này, không biết vô tình hay cố ý, thường trổi điệu kèn tiễn hồn chiến sĩ, khi ông kết thúc các buổi dạy!

Trong kỳ nghỉ hè sau hai năm theo Trung học, Triệu lại có được cơ hội đưa ông ngoại đi Sài Gòn chữa bịnh. Mặc dầu nhà đã có những khó khăn sinh kế buổi hồi hưu, nhưng Triệu đã đưa ngoại đến bác sĩ Trần Quang Đệ, một y sĩ đã đậu nội trú các bịnh viện Paris và đã nổi tiếng là người có phẫu thuật giỏi trong y giới miền Nam. Ông Đệ là người làng Mỹ Long (Sa Đéc) có bà con với bên bà nội của Triệu. Vì liên hệ gia đình, ông vẫn săn sóc miễn phí cho thân quyến. Rất may là bịnh của ngoại chưa cần phải giải phẫu. Hai ông cháu vui mừng thả bộ từ phòng mạch bác sĩ Đệ ở đường Blancsubé gần nhà thờ Sài Gòn để cùng dạo phố Catinat (Đường Tự Do) và đường Charner (Nguyễn Huệ) mà ngoại vì quen miệng nên thường gọi là đường Kinh Lấp. Ngày xưa, nơi đây là một con kinh đào từ sông Sài Gòn đến trước Tòa Đô Sảnh. Con kinh này đã được lấp đi để xây thành đường Charner. Đi dạo Chợ Cũ Sài Gòn là một cái thú của người dân có dịp đến Đô thành. Vùng Chợ Cũ lại còn có quán Cháo cá đã nổi tiếng qua nhiều thập niên. 

Khi Triệu cùng ngoại đến trạm buýt cuối cùng ở đường Boulevard de la Somme (Đường Hàm Nghi), chợt thấy xe cộ đã phải ngừng lại hai bên đường, nhường cho các quân xa quân đội Nhật di chuyển lên từ bến tàu Khánh Hội. Sau khi đã ép Pháp đồng ý cho vượt biên giới ở Bắc Việt, nay quân đội Nhật lại bắt đầu đổ bộ vào miền Nam. Triệu vẫn còn nhớ ngày lịch sử cuộc đổ bộ của Quân Đoàn 25 Nhật xuống Vũng Tàu và Sài Gòn vì đã xảy ra nửa tháng sau ngày lễ quốc khánh 14 tháng 7 năm 1941 của Pháp.

Dân chúng Việt đứng nhìn trong tâm trạng băn khoăn, những quân xa chở đầy lính Nhật, quân phục kaki xanh, đầu hoặc để trần, cạo bóng loáng, hoặc đội nón xếp lưỡi trai. Có rất nhiều xe chở toàn những khuông hình rất lớn, có lẽ là các bản đồ hành quân. Ngoại tuy đã về hưu nhưng đã phục vụ cả đời trong nghành Địa chánh đã đoán chắc là các quân xa đã chở bản đồ quân sự vì kích thước thông thường đều như thế. Ngoại nói nhỏ với Triệu: “ Mầy còn nhớ các anh Nhật bán đồ chơi ngày trước không? Những anh đi bán dạo ở Lục tỉnh cho Dainan Koosi (Đại Nam Công Ty) ngày trước là bọn đi do thám cho Nhật đó”.

Triệu lúc ấy mới sực nhớ lại là ngày trước, lúc ngoại còn là công chức ở Vĩnh Long: những lần có lễ lớn, nhất là lễ Giáng Sinh, Triệu vẫn thường ngóng trông các ông Nhật đến nhà bán các đồ chơi, hoặc xe, hoặc tàu tự động di chuyển v.v... Các người bán dạo này thường mang theo một va ly rất lớn vì ngoài đồ chơi cho trẻ em họ còn bán cả các loại ly, dĩa, bộ đồ trà bằng sứ mỏng cho các gia đình.

Hôm nay Triệu mới được cơ hội lần đầu tiên thấy một quân đội hành quân qua phố phường, một quân đội toàn người da vàng như mình, từ sĩ quan đến binh lính. Người nào cũng vạm vỡ, cao lớn, quân phục gọn ghẽ. Thế là danh từ “người lùn” Nhật Bản trước kia chỉ là một cách nói kiêu căng của Âu Tây? Đặc biệt sắc diện của các sĩ quan, phần đông đeo kính trắng, nghiêm nghị nhìn thẳng về phía trước, đã khiến Triệu có riêng trong tâm khảm ít nhiều kính phục. Triệu cảm thấy hãnh diện lây, vì một dân tộc Á Đông nay lại có được một quân đội như vậy. Dân chúng hai bên đường mặc dầu ắt hẳn có chút băn khoăn về thời cuộc, nhưng chắc cũng có những cảm giác hãnh diện cho một quốc gia Á đông, nay có được một bước tiến quân sự trên bình diện quốc tế. Một câu thơ hô hào đồng bào Việt nên cảnh tỉnh của Phan Sào Nam bỗng vang dội lên trong đầu Triệu: 

“ Á Tế Á (Asia) năm châu là bậc nhất,
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn...”

Vì nước nhà vẫn còn bị người Pháp đô hộ, đâu đâu cũng có hình bóng mật thám dò la nên dân chúng nhìn quân đội Nhật di chuyển mà không có ai dám có một cữ chỉ thân thiện, một lời hoan hô, mặc dầu trong thâm tâm vẫn thấy hãnh diện lây vì một dân tộc bạn đã mở mặt mở mày trong hoàn vũ.

Xen kẽ trong các người xem quân đội Nhật đổ bộ, cũng có không ít người Pháp. Họ nhìn các binh sĩ Nhật với nét mặt không mấy thiện cảm, đôi khi còn thoáng thấy một ít khinh khi. Trong không khí dường như có lẫn lộn những ý nghĩ ngột ngạt, hoặc như đánh dấu những ngày tàn sắp đến của chế độ thực dân, hoặc những mong ước thầm kín mong Nhật sẽ bại trận trong tương lai để họ trở lại thời ăn trên ngồi tróc như cũ.

Triệu nói nhỏ với ngoại: 

-Mấy anh Tây này coi bộ ghét Nhật dữ tợn!

Ngoại đáp:

-Ông Bác và ông Nội mầy bị Tây đày từ Hà Tĩnh vô Sa Đéc vì phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, không biết mấy ổng nghĩ ra sao. Riêng tao thì được biết, người Nhật khi đã chiếm Cao Ly, họ xử sự tàn nhẫn với dân chúng không thua gì thực dân Pháp ở đất mình. Nhật bây giờ đến Sài Gòn, tao ngán lắm. Thằng Tây chỉ thích ăn bơ, sữa, bánh mì, thịt bò bíp tết. Mắm ruốc, mắm đồng tụi nó chê. Còn dân Nhật bổn cũng ăn cơm như mình, rau muống, dưa mắm họ cũng thích. Sợ dân mình rồi đây không còn món gì họ chừa để bỏ vô bụng nữa!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét