Phạm Nhật Bình
Ngày 31/5/2019 trên mạng xã hội Facebook, nhân nhắc về
việc cựu Thủ tướng Thái Lan Prem Tinsulanonda vừa qua đời, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đã viết: "Thời điểm ông ấy
(Prem Tinsulanonda) làm thủ tướng trùng với thời điểm năm nước thành viên ASEAN
cùng nhau chống lại sự xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và chính phủ
Campuchia, sau đó
đã thay thế chế độ Khmer Đỏ." (BBC Tiếng Việt).
Quan điểm của ông Lý Hiển Long thể hiện cách nhìn của một
quốc gia trong khối ASEAN mà quyền lợi chính trị cũng như kinh tế gắn liền sự
ổn định khu vực sau chiến tranh Việt Nam. Quan điểm ấy trên thực tế phù hợp với
định nghĩa của Nghị quyết 3314 của Liên Hiệp Quốc “Xâm lược là việc sử dụng lực
lượng vũ trang của một quốc gia nhằm chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay
sự độc lập về chính trị của một quốc gia khác…” (Wikipedia). Những sự kiện
diễn ra trong ngày 7/1/1979 đã cho thấy Hà Nội đã thực hiện đúng theo định nghĩa
này.
Nhưng hai chữ “xâm lược” đã lật tẩy bộ mặt thật của Hà
Nội trước công luận quốc tế mà lâu nay họ cố giấu nhẹm. Nó lập tức gây ra một
cơn bão chỉ trích ông Lý Hiển Long một cách nặng nề của hầu hết báo chí quốc
doanh Việt Nam và một số dư luận người Việt Nam bảo hoàng hơn vua.
Điển hình như báo Công an TPHCM phê phán Thủ tướng
Singapore đã "đưa
ra những nhận định hoàn toàn trái với sự thật lịch sử về giai đoạn quân tình
nguyện Việt Nam sang Campuchia giúp nước bạn lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ
tàn bạo". Hay như bài báo của trang tin VTC cho rằng Thủ tướng Singapore có
"một phát biểu hồ đồ, sai sự thật, xuyên tạc lịch sử, chạm vào nỗi đau của
người dân Campuchia, của nhân dân Việt Nam về một giai đoạn khổ đau và đen tối
nhất trong lịch sử". Những người cộng sản ưa nói tới “sự thật
lịch sử”, nhưng xem ra phải là loại lịch sử do họ dựng lên, tô vẽ, bịa đặt cho
đúng khẩu vị của những tay chuyên nghề nói dối.
Không ai muốn bào chữa miễn phí cho một chế độ tàn bạo
như Polpot, nhưng hành động bất ngờ xâm lăng một nước khác của Hà Nội lúc đó
thực sự làm thế giới dân chủ rúng động. Nhất là các nước vùng Đông Nam Á như
Thái Lan tỏ ra vô cùng lo lắng trong khi Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (SEATO)
vừa tan rã năm 1977.
Cuộc tấn công ngày 7/1/1979 vào thủ đô Phnom Penh của
quân đội Việt Nam đã nhanh chóng xoá bỏ chính quyền Campuchia Dân chủ lúc đó do
Polpot đứng đầu, sau đó lực lượng quân sự Việt Nam đã ở lại 10 năm và chỉ rút
lui từ năm 1989. Chuyện này phải được coi là lịch sử một cuộc xâm lăng và chiếm
đóng một nước có chủ quyền, bất luận chính quyền của nước ấy là một chính quyền
thế nào. Nhưng từ đó đến nay nó luôn được Hà Nội mô tả một cách hào hiệp rằng “quân
tình nguyện Việt Nam” đã sang giúp nhân dân Campuchia đánh đuổi chế độ diệt
chủng Polpot và coi đó như một chiến thắng của tình vô sản anh em.
Một số dư luận lý giải thêm về tình hình biên giới Tây
Nam để biện minh cho hành động của Việt Nam trong việc buộc phải sử dụng vũ lực
để bảo vệ lãnh thổ trong tình hình căng thẳng với Trung Quốc ở biên giới phía
Bắc. Tuy nhiên đây cũng chưa phải là lý do chính để bào chữa cho tham vọng của
Việt Nam ở bán đảo Đông Dương.
Thời điểm năm 1979 tướng Prem Tinsulanonda là
tư lệnh Quân đội Hoàng gia Thái Lan, một nhân vật được mô tả là chống cộng khét
tiếng sau khi Miền Nam sụp đổ. Rõ ràng ông phải lo ngại Việt Cộng sau khi đánh
đuổi Polpot chiếm được Campuchia có thể nhân cơ hội tràn qua biên giới Thái,
tiến quân thẳng vào Bangkok để thực hiện mong muốn điên rồ “làm cách mạng giải
phóng cả thế giới”. Do đó Thái Lan đã vận động các quốc gia trong tổ chức Liên
Hiệp Quốc nhiều lần lên án hành động xâm lược không thể chối cãi của Việt Nam
theo luật pháp quốc tế.
Nhưng đối với Việt Cộng lúc ấy, do tham vọng bành trướng trên bán đải Đông Dương của lãnh đạo CSBV nên họ bất chấp sự lên án và cấm vận của quốc tế. Sở dĩ Hà Nội
dám mạnh dạn xua quân chiếm đóng Campuchia vì họ đánh giá đúng thái độ của các
quốc gia Tây phương qua Hiệp định Paris năm 1973. Sau khi đặt bút ký kết, Hà Nội đã phớt lờ Định ước
của Liên Hiệp Quốc và 12 quốc gia nhằm bảo đảm việc thi hành Hiệp định. Họ tiếp
tục xua quân chiếm Việt Nam Cộng Hoà một quốc gia thành viên LHQ nhưng thế giới làm ngơ, không có quốc gia nào lên tiếng kể cả Hoa Kỳ. Chính sự làm ngơ của các nước đã ký vào Định ước bảo đảm thi hành
Hiệp định Paris 1973 giúp Việt Cộng thành công, xoa tay mừng chiến thắng chiếm
được Miền Nam Việt Nam lúc đó là một nước có chủ quyền.
Từ sự kiện 7/1/1979 đến nay, miệng lưỡi Việt Cộng vẫn không có gì thay đổi.
Nhưng điều đó cũng dễ hiểu vì không thằng cộng sản nào chịu cha ăn cướp. Mới
đây tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La, Nguỵ Phượng Hoà trơ trẽn tuyên bố “Trong suốt 70 năm qua kể từ
ngày thành lập nước, Trung Quốc chưa bao giờ phát động một cuộc chiến hay xung
đột, hay xâm lược quốc gia khác hay lấy dù chỉ một tấc đất của nước khác”. Người
ta có thể hỏi trong hai năm 1974 và 1988 Trung Cộng đã làm gì ở Hoàng Sa và Gạc
Ma? Hoặc năm 1959 Trung Cộng “Giải phóng Hoà bình Tây Tạng” hay đánh chiếm một
quốc gia?
Rõ ràng miệng lưỡi của những tên độc tài máu lạnh luôn
giống nhau. Hay nói cách khác, Trung Cộng và Việt Cộng ứng với câu “Cha nào con
nấy, thầy nào tớ nấy”!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét