Không phải văn bản cấp nghị quyết
hay nghị định của chính phủ, mà chỉ là hình thức một thông tư của Bộ Công an
nhưng lại đang gây ngạc nhiên, nếu không muốn nói là kinh ngạc, đối với dư luận
xã hội và giới quan sát chính trị.
Vào trung tuần tháng Sáu năm 2018,
Bộ Công an bất ngờ ban hành Thông tư số 17/2018 quy định về trang bị vũ khí, vật
liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ có hiệu lực từ ngày 1/7. Theo đó, các đơn vị
nghiệp vụ của Bộ Công an, trại giam, công an cấp tỉnh, công an quận, huyện, thị
xã... được xem xét trang bị các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ như: súng ngắn,
súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng đại liên, súng cối, súng
ĐKZ, trực thăng vũ trang, tên lửa chống tăng cá nhân... Còn công an xã, phường,
thị trấn được xem xét để trang bị súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng
bắn đạn cao su, hơi cay, dùi cui điện, bình xịt hơi cay...
Vì sao lại xuất hiện động thái vũ
trang quá đặc biệt trên trong thời điểm này?
‘Thế lực thù địch’ hay nhân dân?
Nếu cơ chế trang bị súng cho công
an xã là có thể lý giải được vì đây là một đề xuất loại ‘cố đấm ăn xôi’ của Bộ
Công an từ vài năm trước và tái xuất hiện vào cuối năm 2017, thì việc công an từ
cấp huyện trở lên được trang bị những loại vũ khí hạng bán nặng và hạng nặng
như súng trung liên, súng đại liên, súng cối, súng ĐKZ, trực thăng vũ trang,
tên lửa chống tăng cá nhân... đã đặt ra một dấu hỏi rất lớn: công an cần những
loại vũ khí này để đánh ai?
Chiến tranh với ‘thế lực thù địch’
hay với dân?
Nếu đối tượng bị tấn công là ‘các
thế lực thù địch’ thì không có cơ sở, vì cho tới nay vẫn không có bất kỳ dấu hiệu
nào cho thấy đã hình thành một lực lượng ‘phản động’ được quân sự hóa trên lãnh
thổ Việt Nam. Cũng chẳng có một lực lượng chính trị đối lập nào. Thậm chí ngay
cả những tổ chức xã hội dân sự độc lập còn không thể tổ chức sinh hoạt vì bị
công an ngăn chặn.
Còn nếu giới quan chức công an vẫn
cố tình cường điệu vai trò của ‘tổ chức khủng bố Việt Tân’ thì chính ngành công
an lại quá thiếu bằng chứng để chứng minh rằng Việt Tân có một vai trò chính trị
hay quân sự đủ lớn ở Việt Nam mà phải khiến cho toàn bộ ngành công trang bị
súng ống từ đầu đến chân.
Vậy phải chăng các loại vũ khí
bán nặng và hạng nặng sẽ được công an dùng để đàn áp dân?
Nếu mục đích trên là có thực, sẽ
là quá hoang tưởng đối với ngành công an khi xem nhân dân là thù địch, cho là
dân có thể tự chế ra xe tăng và phải dùng đến những loại vũ khí sát thương hạng
nặng để chống lại những người đã sinh thành ra mình.
Tuy nhiên, trong thực tế đàn áp
dân từ trước đến nay, đa phần công cụ được ngành công an sử dụng là dùi cui, lực
đạn cay hay cùng lắm là đạn cao su. Theo logic phát triển về tầm mức sử dụng vũ
khí, nếu tình hình trở nên thách thức lớn hơn, công an có thể dùng súng thật và
đạn thật, nhưng vẫn không thể đến mức dùng máy bay trực thăng vũ trang hay súng
chống tăng… trong khi dân chỉ toàn tay không.
Hơn nữa, việc trang bị các loại
vũ khí hạng nặng cho công an từ cấp huyện trở lên là cực kỳ tốn kém. Liệu một nền
ngân sách quốc gia - vốn đang lâm vào tình thế cạn kiệt, đang phải vắt cổ dân để
dùng đến hơn 70% trong mục chi thường xuyên chi trả lương cho đội ngũ gần 3 triệu
công chức viên chức và lực lượng vũ trang, đang phải xóa toàn bộ các tổng cục của
Bộ Công an và giảm mạnh biên chế của ngành này…, có chịu nổi gánh nặng trang bị
vũ khí hạng nặng cho công an?
Trong khi đó, các loại vũ khí như
súng đại liên, súng cối, súng ĐKZ, trực thăng vũ trang, tên lửa chống tăng cá
nhân... thường chỉ được trang bị trong quân đội ở cấp tiểu đoàn, còn trực thăng
vũ trang chỉ được trang bị cho cấp trung đoàn trở lên. Những loại vũ khí này chỉ
được sử dụng trong tác chiến trên chiến trường với đối phương chứ không phải là
đánh nhau với dân trong từng góc phố.
Chuẩn bị chiến tranh với Trung Quốc?
Chỉ còn lại một nguồn cơn mà rất
có thể đã dẫn tới quyết định quân sự hóa công an từ cấp huyện trở lên: Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, rất nhiều
tàu cá Việt Nam đã bị tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc tấn công, đâm chìm, còn
ngư dân Việt bị hành hung và bị hất xuống biển.
Không chỉ đặt tên lửa ở đảo Phú
Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa vào năm 2016, Trung Quốc còn tiến thêm một bước dài
khi mang cả máy bay quân sự ra đảo Đá Subi ở quần đảo Trường Sa vào năm 2018.
Đến lúc này, tình thế đã trở nên
bi kịch hơn hẳn: không những các giàn phóng tên lửa của Việt Nam ở Trường Sa đã
chẳng thể khiến Trung Quốc hoảng sợ, mà cả sự hiện diện của hàng không mẫu hạm
Mỹ USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu Tháng Ba, 2018 (theo lời “cầu viện” chính
thức của Bộ Quốc Phòng Việt Nam) cũng chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc.
Nhưng nguyên nhân đặc biệt nhất
là chính thể Việt Nam, cùng nền ngân sách đang rơi vào cảnh suy kiệt mà chỉ còn
trông chờ vào thói đè đầu dân chúng để tróc thuế và khai thác nguồn tài nguyên
gần như duy nhất còn lại là dầu khí, lại đang lâm vào bi kịch không những phải
‘giương cờ trắng’ tại mỏ Cá Rồng Đỏ và mỏ Cá Voi Xanh, mà còn có thể phải ‘quy
hàng thiên triều’ ở mỏ Lan Đỏ.
Vào tháng Sáu năm 2018, một bản đồ
lưỡi bò được Trung Quốc vẽ lại đã ‘liếm’ qua đến 67 mỏ dầu khí của Việt Nam, bất
chấp Việt Nam luôn tuyên bố đây là vùng chủ quyền của mình. Điều đó có nghĩa là
ngay giờ đây, chính thể Việt Nam không còn có thể tự khai thác dầu khí ngay
trên vùng lãnh thổ của mình nữa.
Giờ đây, kịch bản thất bại đến mất
ngủ ở Bãi Tư Chính đang lặp lại, khiến giới chóp bu Việt Nam mất ăn dầu khí
ngay trên vùng lãnh hải của mình và càng bế tắc trong cơn ác mộng những khoản nợ
nước ngoài đang ập đến như sóng thần Biển Đông.
Phương trình Biển Đông cứ mỗi
tháng trôi qua lại sinh sôi thêm nhiều ẩn số. Có quá nhiều lý do để Bộ Chính trị
đảng cùng cơn lạm phát gần 500 tướng quân đội phải đau đầu đến thống phong. Nếu
chấp nhận “hợp tác cùng khai thác dầu khí” với Trung Quốc theo lối nói không
thèm úp mở của Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc là Vương Nghị, Việt Nam sẽ đồng
thời phải thừa nhận một tiền lệ chưa từng có về việc phải cho kẻ cướp chung sống
trong nhà mình và một cách chính thức bắt đầu chấp nhận ách đô hộ của “Hoàng đế
Tập Cận Bình”.
Còn nếu không chấp nhận cách chia
bôi lợi nhuận dầu khí với kẻ cướp, tương lai có thể sẽ là một cuộc xung đột
quân sự.
Thật thế, tương lai Trung Quốc
tái hiện cuộc chiến biên giới năm 1979 trên biển Đông và có thể cả trên đất liền
có vẻ đang đến gần, nhất là khi sự can thiệp của hải quân và không quân Hoa Kỳ ở
Biển Đông là chưa đủ ý nghĩa để khiến Trung Quốc phải chùn bước.
Nếu trong nhiều năm trước giới
chóp bu Việt Nam hầu như vô cảm trước cảnh tàu ngu dân Việt bị ‘tàu lạ’ đâm va
bắn giết, thì nay trước nguy cơ mất ăn dầu khí và mất nguồn ngân sách nuôi đảng
bởi ‘đồng chí tốt’, chính thể Việt Nam mới phải tìm cách trang bị các loại vũ
khí bán nặng và hạng nặng cho cả công an, mà có thể ưu tiên cho công an ở các
khu vực biên giới phía Bắc, vùng duyên hải và biên giới Tây Nam giáp Campuchia.
Đồng thời, chính thể Việt Nam
cũng ‘giải mật’ Thông tư 17/2018 về trang bị vũ khí cho công an như một động
tác công khai hóa nhằm ‘hù’ Trung Quốc…
Kế hoạch quân sự hóa ngành công
an có thể nằm trong một kế hoạch tổng thể của Bộ Quốc phòng Việt Nam về các những
tình huống và phương án tác chiến với Trung Quốc.
‘Chiến tranh dầu khí’ Trung - Việt
có thể nổ ra chỉ trong một vài năm tới?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét