Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2018

6808 - Vài suy nghĩ về bạo lực



                      Will Nguyễn bị kéo trên đường phố Sài Gòn trong một cuộc biểu tình.


Về bạo lực, tôi nghĩ đến ba điều chính: một, nguồn gốc; hai, tiến hoá; ba, chuyển hoá.

Nguồn gốc của bạo lực có từ thời tiền sử, thời ăn lông ở lỗ, từ lúc con người hiện hữu trên thế gian này. Con người là một động vật, như bao động vật khác, nhưng thông minh hơn và bạo lực hơn nhiều. Để chống chọi với thiên nhiên đầy hiểm nguy và bạo lực chung quanh, trong đó có các loài thú dữ tợn hơn rình rập mọi lúc, cũng như với các gia đình hay bộ tộc khác (hay về sau này quốc gia hay liên quốc gia) luôn cạnh tranh và đe dọa, con người thời đó không có sự chọn lựa nào khác hơn là dựa vào sức mạnh bắp thịt để sống còn. Họ không có khả năng và cũng không thể nói lẽ phải với người khác, cái chưa hề hiện hữu. Thành phần nào bạo lực hơn và biết tính toán để tổng hợp được sức mạnh hơn, thì có khả năng tồn tại. Bộ não của con người thời đó phát triển về mặt cảm xúc nhiều hơn lý trí. Nói tóm lại, bạo lực là đặc tính, là bản chất của con người, trước đe doạ sống còn.

Qua thời gian, qua quá trình tiến hoá, con người trở nên “văn minh” hơn. Họ biết kết đoàn và liên minh để tổ chức làm việc, để cùng nhau xây dựng những nền tảng chung, luật lệ chung, về mặt vật chất và tinh thần, hay nói chung là nền tảng giá trị và quyền lợi chung, để cùng nhau bảo vệ những hiểm họa có thể đe dọa đến sự sống còn không phải chỉ cho cá nhân, gia đình hay bộ tộc họ, mà còn cho dân tộc, đất nước họ đang sống. Họ biết học hỏi những cái hay cái mới, và biết rút tỉa kinh nghiệm từ những thất bại trong quá khứ. Qua thời gian bộ óc con người phát triển hơn về mặt lý trí, lý luận, từ đó giúp họ suy nghĩ khoa học hơn. Có tiếng nói, có ngôn ngữ, có chữ viết v.v… để truyền đạt thông tin, để “truyền thông” nhau, nên hiểu nhau nhiều hơn, và hiểu lầm ít hơn, tránh bớt những xung đột bạo lực không cần thiết. Những điều này phần lớn chỉ xảy ra trong vòng bốn đến năm ngàn năm nay thôi. Tức là từ khi chúng ta gọi chung là có văn minh. Trước đó nó không được như vậy.

Tuy thế, những hiểm nguy và mối đe doạ đối với con người vẫn hiện hữu, ở mức độ và tốc độ khác nhau. Càng thông minh, con người càng chế ra bao nhiêu vũ khí và dụng cụ khác nhau để tiêu diệt nhau và tiêu diệt hàng loạt. Tâm lý sợ hãi của con người văn minh cũng khác, nhất là khi người ta phải nghe, thấy hoặc đọc từ vô số nguồn thông tin “tiêu cực” tràn ngập từ trong nhà ra đến ngoài xã hội. Do đó nỗi sợ hãi và bất an trước những thay đổi to lớn vẫn lấn át bộ não. Khi bị chỉ trích, khiêu khích hay đe dọa tính mạng, phần của não có tên là amygdala, đóng vai trò như cái chuông trong bộ não, nhận diện mối đe dọa như sống chết, nên la lên cần phải “chiến đấu hay chạy trốn” (fight or flight response). Trong tình trạng đó, Amygdala chiếm cứ phần cao trung của bộ não, điều khiển “hành động trước, suy nghĩ sau”, và đóng băng phần não chịu trách nhiệm về lý luận phân tích. Qua thời gian, bộ não được cài đặt chương trình như thế, và vận hành như thế, một cách vô ý thức [1].

Mặc dầu trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc chiến tranh lạnh cũng như bao nhiêu cuộc nội chiến, tàn sát và diệt chủng ở mức độ tàn khốc diễn ra trong thế kỷ 20, mức độ bạo lực tổng thể đã gia giảm đáng kể so với trước đây, đặc biệt là từ sau Chiến tranh Lạnh cho đến nay. Tuy thế, tính chất bạo lực vẫn tiềm ẩn trong con người, ngay cả những người đang sống trong các quốc gia văn minh hàng đầu như Hoa Kỳ, chẳng hạn. Theo thống kê năm 2015 thì có 372 vụ xả súng (mass shooting), khiến cho 475 người bị giết và 1.870 người bị thương [2]. Tính theo tỷ lệ thì số người bị giết vì súng tại Hoa Kỳ nhiều gấp 30 lần so với Anh. Từ năm 1968 đến năm 2011, có 1,4 triệu người chết vì súng, trong khi đó chỉ có 1,2 triệu người chết trong mọi cuộc xung đột từ chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ đến cuộc chiến Iraq. Các tội phạm mang tính bạo lực, từ giết người, hiếm dâm hoạc xâm phạm tình dục, cướp bóc và bạo hành, chỉ vào năm 2015 thôi, đã là 1,25 triệu vụ [3].

Bạo lực, nhất là bạo lực gia đình, là khá phổ biến trong mọi nền văn hoá. Nhưng điều oái ăm là nó lại phổ biến nhất trong những nền văn hoá đề cao giá trị gia đình. Bạo lực lại duy trì bạo lực. Cái vòng luẩn quẩn của bạo lực sẽ không có lối thoát nếu không nhìn ra được và không ý thức được phương cách giải quyết nó.

Nếu lòng tốt và sự tử tế ảnh hưởng tích cực và sâu rộng lên con người chung quanh, thì ngược lại, bạo lực mang tính truyền nhiễm nhanh và mạnh.

Theo các nghiên cứu năm 2016, thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ có khả năng lên đến 183 phần trăm gây nên bạo lực nếu một trong những người bạn của họ đã phạm tội đó [4]. Những người nghĩ đến bạo lực hay sử dụng bạo lực thường tìm đến nhau, và các mạng lưới xã hội như thế là nơi dung dưỡng bạo lực. Nghiên cứu này kết luận rằng một người tiếp xúc với bạo lực thường có nguy cơ dẫn đến bạo lực hơn là một người không bị ảnh hưởng bởi vòng truyền nhiễm này. Một khi bạo lực bắt đầu với các mạng lưới xã hội này, nó có nguy cơ lan rộng đến toàn thể thành viên trong mạng lưới. Bạo lực từ một người có khả năng ảnh hưởng lan rộng đến hai độ xa cách (bạn của bạn) như gây thương tích trầm trọng, ba độ xa cách (bạn của bạn của bạn) như sử dụng vũ khí, và bốn độ xa cách (bạn của bạn của bạn của bạn) như đánh nhau nặng nề.

Kết luận của các nghiên cứu này có thể giải thích các hành động bạo lực mang tính tập thể, từ khủng bố, các cuộc cách mạng chính trị, và những cuộc đấu đá giữa các băng đảng.

Để gia giảm hay chấm dứt bạo lực trong xã hội, nó cần phải bắt đầu từ mỗi một người, bởi một người là đã có khả năng gây nên bạo lực và lan tràn đến tất cả các thành viên trong mạng lưới xã hội đó.

Làm sao để chuyển hoá bạo lực cho một tập thể, một cộng đồng, một quốc gia? Nhất là một quốc gia mà chế độ cầm quyền lại chủ trương dùng bạo lực để cai trị, đàn áp mọi tiếng nói phản biện? Đề cao lý trí hơn cảm xúc là một cách, cũng như việc đề cao khả năng sử dụng trí cảm (emotional intelligence) là điều cần thiết và hệ trọng hiện nay. Ai cũng có cảm xúc, nhưng biết sử dụng nó, biết chuyển hoá những cảm xúc tiêu cực sang tích cực, chứ không tránh né nó, là phương pháp hữu hiệu. Đeo nơ trắng (white ribbon) để ủng hộ tinh thần chống lại bạo hành gia đình cũng là một cách hay để gây ý thức. Và còn bao nhiêu cách sáng tạo và độc đáo khác để nói không đối với bạo lực. Điều thiết yếu là phải ý thức được rằng bạo lực nó rất là nguy hiểm và dễ lan truyền, nó lan rất nhanh và rất mạnh. Hơn nữa, một người kiểm soát được từng suy nghĩ, lời nói và hành động của mình là điều rất khó. Khó hơn nữa là vì người đó có thể kiểm soát được mình, nhưng không kiểm soát được người khác. Và khi bị kích động mạnh thì ai có thể điều khiển được mình hay người khác, nhất là khi chưa có kinh nghiệm từng trải và chưa chuẩn bị tinh thần?

Một số kết quả nghiên cứu trên có thể hữu dụng trong trong trường hợp Việt Nam. Trong và sau các cuộc biểu tình chống Luật Đặc Khu và Luật An Ninh Mạng vừa qua, vấn đề bạo lực một lần nữa được bàn cãi sôi nổi, nhất là trên mạng xã hội. Có nhiều người trước đây không hề cổ võ cho bạo lực, nhưng khi thấy người biểu tình bị đàn áp thô bạo, nó làm cho họ suy nghĩ lại lập trường bất bạo động như thế có thật sự hiệu quả không và đúng đắn không. Rồi cũng có những người khác nặng lời hơn cho rằng kêu gọi bất bạo động để chống chế độ phi nhân, vô pháp và tàn bạo thì là ngu đần, hèn nhát và nguỵ trá.

Thay vì phân tích chính đáng về ích lợi hay thiệt hại của bạo lực hay ôn hoà, rất nhiều người Việt thường có khuynh hướng lên án kết tội, xem mình như quan toà, mà không dựa vào bằng chứng hay nghiên cứu khoa học. Cảm tính vẫn cứ tiếp tục lấn át các tranh luận bấy lâu nay.

Những cuộc biểu tình chủ trương ôn hoà tại Việt Nam, chẳng hạn như những cuộc quy tụ vài chục ngàn người của các tôn giáo trong thời gian qua, chứng minh sức mạnh của tinh thần và niềm tin vào lẽ phải.

Không những thế, đấu tranh bất bạo động sẽ giúp cho người đấu tranh kỷ luật hơn về tinh thần, hiểu biết hơn về lý trí, bảo toàn được lực lượng và ý thức hơn về mục tiêu đấu tranh. Chế độ cầm quyền vô cùng lo sợ sức mạnh của lẽ phải. Những người như Trần Huỳnh Duy Thức hay Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, không có đến một tấc sắt trong tay, nhưng chế độ đã kết án họ 16 và 10 năm tù. Sức mạnh của lý lẽ, của lời nói, của sự thật, tuy chưa nhưng rồi một ngày nào đó sẽ chiến thắng họng súng, lưỡi gươm.

Không còn con đường nào khác ngoài đấu tranh bất bạo động nếu muốn thay đổi Việt Nam theo chiều hướng tốt hơn. Các cuộc đấu tranh bất bạo động thành công của Mohandas Gandhi, Martin Luther King là những bài học đáng noi theo cho con đường Việt Nam. Lẽ ra Việt Nam có thể đi trước các quốc gia này, vì chúng ta có cụ Phan Chu Trinh, người cổ võ cho tri thức và bất bạo động. Nhưng văn hoá bạo lực đã thấm quá sâu vào dân tộc Việt Nam.

Đã đến lúc chúng ta cùng đồng lòng quyết tâm đề cao tinh thần ôn hoà nhưng vô úy, tinh thần bất bạo lực nhưng bất tuân phục đối với cường quyền, vì ba lý do sau đây.

Một, đối đầu với cả một hệ thống quyền lực chuyên sử dụng bạo lực để cai trị, lại đối đầu bằng tinh thần bất bạo động, thật ra là một tinh thần bất khuất, vô uý. Một người có vũ khí trong tay thì còn có thể nghĩ rằng mình tự bảo vệ được khi bị tấn công, dù lập luận hay tâm lý như thế không vững trên thực tế. Trong khi đó, một người không có gì cả ngoài tinh thần bất khuất, lại đối đầu với súng đạn, vũ khí và ngay cả cái chết trước mặt họ, quả là can trường. Những kẻ dùng vũ khí để tấn công những người này, và những người bàng quan chung quanh, sẽ rung động trước tinh thần vô uý như thế. Có thể nó không xảy ra một sớm một chiều, nhưng rồi chắc chắn tinh thần vô uý như thế sẽ lan toả để chôn vùi bạo lực.

Hai, sử dụng biện pháp bạo lực đối với cả một hệ thống quyền lực chuyên sử dụng bạo lực trong hoàn cảnh ngày hôm nay chẳng khác gì trứng chọi đá, hay đá chọi súng. Đó là cuộc đấu tranh bất cân xứng về lực lượng, giữa tỷ lệ một so với một trăm hay một ngàn. Rõ ràng những người đấu tranh có tất cả mọi lý do chính đáng để phẫn nộ, và vì sự phẫn uất chồng chất nên dễ trở thành bạo động qua các cuộc biểu tình này. Nhưng những người đấu tranh bạo động cùng lắm thì chỉ có thể thắng nhất thời, thắng trận đánh, nhưng không thể nào thắng cuộc. Họ sẽ bị nghiền nát bằng bạo lực ngay sau đó. Đó là điều dứt khoát. Như thế, cái thoả mãn cảm xúc nhất thời sẽ gây thiệt hại cho mục tiêu chiến lược lâu dài.

Ba, với sự bất cân xứng về tương quan lực lượng hiện nay, cuộc đấu tranh sẽ không đưa đến kết quả mong đợi nếu không có các thành phần khác trong xã hội nhập cuộc. Nhiều thành phần xã hội khác sẽ nhập cuộc nếu có lãnh đạo và tổ chức, và phải bằng phương pháp bất bạo động. Nghĩa là khi họ có được hy vọng là có những tổ chức chính trị đủ khả năng, tầm nhìn và phương thức đấu tranh để đem lại thay đổi, đem lại thắng lợi, nhưng ít tổn thất và xáo trộn, thì họ sẽ mạnh dạn hơn để tham gia. Đa số không muốn ủng hộ cho một thay đổi mà họ không rõ sẽ đi về đâu, hay bạo loạn và bất ổn. Xu hướng chung, và tâm lý chung, của mọi xã hội đều như thế. Lịch sử đất nước Việt Nam đã triền miên trong khói lửa, chiến tranh và hận thù, và không còn mấy ai muốn nó tiếp diễn như thế nữa. Bao nhiêu mất mát chồng chất để được gì? Nếu chủ trương bạo động, dù có thành công đi nữa, thì khi lên nắm quyền họ có tự động chuyển hoá sang ôn hoà và dân chủ không?

Do đó những người điều hợp và phối hợp đấu tranh hiện nay cần giữ vững niềm tin sắc son vào bất bạo động. Cương quyết, kỷ luật và không nao núng tinh thần trước bạo lực là điều rất khó. Bạo động, như đã nói trên, dễ bùng nổ và lan truyền nhanh như lửa hoang, nhất là trong xã hội và môi trường đã bị dồn nén quá lâu mà áp xuất chỉ chờ dịp bùng nổ. Cho nên nếu không giữ vững nguyên tắc và kỹ luật khắc khe về đấu tranh bất bạo động trong hàng ngũ đấu tranh thì những kẻ cầm quyền chỉ cần lý do như thế để dập tắt. Có khi chính họ tạo ra cái cớ như thế, và họ thừa khả năng và thủ đoạn để làm chuyện đó. Tất nhiên đấu tranh bất bạo động thì vẫn sẽ có đàn áp. Vẫn sẽ tiếp tục có đổ máu. Nhưng mọi cuộc đấu tranh đều theo quy trình đó. Đàn áp bằng bạo lực càng gia tăng khi càng nhiều người dân nhập cuộc cũng là lúc sự cáo chung của chế độ độc tài đang đến gần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét