Hiện dư luận nổi lên sự tranh cãi liên quan đến một số điều
trong Luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội CSVN thông qua và bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 15 tháng 1, 2018. Các điều khoản trong luật nói trên lần đầu tiên
cho phép ngân hàng chọn phương án phá sản. Đây là một trong những hình thức mà
nhà cầm quyền CSVN nói là nhằm tái cơ cấu các ngân hàng bị cho là yếu kém được
hiệu quả hơn, thế nhưng người bỏ tiền tín dụng lại tỏ ra hoang mang và lo lắng.
Lâu nay, người dân Việt Nam đi vay nếu mất khả năng trả nợ
thì sẽ bị ngân hàng áp dụng các biện pháp xử phạt như tăng lãi suất, phạt tiền,
tịch thu và tịch thu tài sản với mục đích thu hồi lại số tiền gốc và lãi về cho
ngân hàng. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, Luật các tổ chức tín dụng mới quy định
bồi thường tối đa cho người gửi tiền khi ngân hàng phá sản chỉ là 75 triệu đồng.
Dư luận rất lo ngại vì người gửi 100 triệu cũng như người gửi
10 tỉ đồng cũng chỉ được bồi thường như nhau. Không dừng ở đó, luật cũng quy định,
nguyên tắc đầu tiên khi ngân hàng bị phá sản là tài sản ngân hàng đó phải trả lại
cho ngân sách nhà nước trước, tiếp đến là trả cho các khách hàng doanh nghiệp
và cuối cùng mới đến khách hàng cá nhân. Rõ ràng quyền lợi của người gửi đã bị
xem nhẹ trong mắt quan chức làm luật.
Một kẻ hở khác trong hệ thống luật hiện nay là đánh giá
chính xác được uy tín của các ngân hàng tại Việt Nam để “chọn mặt gửi vàng’’ là
điều vô cùng khó khăn; bởi lẽ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới đây
tuyên bố không công khai danh sách xếp hạng tổ chức tín dụng. Còn đối với các
con số do ngân hàng công bố, người dân cũng không có cách nào kiểm chứng độ
chính xác. Trong khi đó, cơ chế kiểm soát của nhà nước đối với ngân hàng hiện
nay rất lỏng lẻo, không có cơ chế ngăn ngừa. Hệ thống thanh tra của ngân hàng
không có hiệu quả. Hàng loạt các vụ án thất thoát, tham nhũng liên quan đến các
ngân hàng vừa qua là minh chứng cụ thể.
JPEG - 98 kb
75 triệu đồng là số tiền tối đa bồi thường cho người gởi tiền
khi ngân hàng phá sản. Ảnh: AFP
Hậu quả của những bất cập trên là người gửi tiền sẽ không biết
được tình hình “sức khỏe” cũng như xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng mà mình
đang gửi tiền. Như vậy thay vì gửi ngân hàng như là một lựa chọn an toàn truyền
thống, chính quyền Việt Nam hiện nay đang đẩy người dân sang hình thái đánh bạc
theo kiểu may rủi.
Những người cao tuổi, hưu trí được đánh giá là nhóm khách
hàng chịu tác động tiêu cực lớn nhất của bộ luật này. Họ chỉ có chút tiền chắt
chiu, dành dụm để phòng thân, nếu giữ ở nhà thì sợ trộm cướp, chọn gửi ngân
hàng thì lại ngày đêm bất an không biết khi nào ngân hàng thông báo bị phá sản.
Trong khi đó, bộ luật nói trên lại đang tạo điều kiện cho thành phần doanh nghiệp
không làm ăn chân chính, các nhóm lợi ích. Ví dụ, tài sản của một doanh nghiệp
trị giá thực tế là 1 tỷ đồng, nhưng doanh nghiệp đó đút lót để được tăng định
giá trị lên 1,5 tỷ để thế chấp và vay tiền. Nếu ngân hàng phá sản thì nhóm đối
tượng này sẽ được lợi.
Chủ trương cho phép ngân hàng phá sản với một mức đền bù thấp
một lần nữa đẩy sự rủi ro trong các giao dịch ngân hàng ở Việt Nam lên một nấc
thang mới. Việt Nam có hàng chục ngân hàng thương mại, phần lớn là do quan chức
đỏ làm chủ với các nghiệp vụ thao túng, lợi ích nhóm. Nhiều năm qua, khối ngân
hàng thương mại đã gây ra núi nợ xấu, dư nợ qua các dự án “ma”, làm giả hồ sơ
tín dụng, rút tiền ra chia chác cho nhau. Đồng thời, các ngân hàng này cũng gặp
nhiều tai tiếng trong việc bòn rút tiền của khách hàng, cụ thể như vụ 17 sổ tiết
kiệm hơn 400 tỷ “bốc hơi” sau 5 năm gửi tại Oceanbank, 32 tỷ đồng trong sổ tiết
kiệm biến mất tại BIDV, bị mất gần 800 triệu trong tài khoản của VietinBank...
Nguyên nhân hầu hết đều chưa có kết luận rõ ràng. Nay Luật
các tổ chức tín dụng có hiệu lực cho ngân hàng phá sản chỉ đền cho chủ tài khoản
tối đa 75 triệu. Cách đền bù cho có này thực chất là hình thức dùng sức mạnh để
cướp tài sản của dân chúng.
Phá sản ngân hàng chỉ nên coi là biện pháp cuối cùng sau khi
áp dụng các biện pháp khắc phục không thành công. Thực tế, ngân hàng không chỉ
là nơi nhận tiền gởi của khách hàng, mà có vai trò cung cấp vốn cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh, bảo hiểm. Nếu bị phá sản sẽ có nguy cơ gây hiệu ứng dây
chuyền ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Ngoài ra, khi một ngân hàng bị phá sản, nguy cơ là các ngân
hàng khác cũng bị liên đới, chẳng hạn vì có sở hữu chéo. Ví dụ như qua cuộc khủng
hoảng toàn cầu vừa qua, bắt đầu từ việc phá sản của ngân hàng Lehman Brothers
năm 2008 ở Hoa Kỳ. Nền kinh tế Iceland bị khủng hoảng trầm trọng khi ba ngân
hàng lớn bị phá sản và phải bị quốc hữu hóa, dẫn đến việc nước này nằm trên bờ
vực phá sản. Hay trường hợp của Hy Lạp và Tây Ban Nha trong đợt khủng hoảng vừa
qua cũng như vậy.
Trong trường hợp Việt Nam, thông tin vốn dĩ thiếu minh bạch,
vì vậy tin đồn có ảnh hưởng rất lớn, việc cho một ngân hàng phá sản là việc phải
rất cẩn thận để không gây khủng hoảng xã hội. Cần phải xem xét quy mô của việc
này, xem xét ảnh hưởng có thể có lên người dân và doanh nghiệp. Nếu bắt buộc phải
cho phá sản ngân hàng, phải có những quy định chặt chẽ. Ví dụ, trong những trường
hợp cần thiết, Chính phủ phải bảo hiểm 100% cho tiền gửi của người dân. Những
món tiền dân tích cóp gửi tiết kiệm nên được bồi thường đầy đủ thay vì chỉ tối
đa 75 triệu đồng như luật hiện hành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét