Linh mục Phanxicô Nguyễn Văn Lý bị bắt giam vào ngày 30 tháng 3 năm 2007 vì lên tiếng cho những bất công liên quan đến chính trị, tôn giáo tại Việt Nam. © 2007 Reuters |
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam trong một thông báo liên quan đến thông
cáo của Bộ ngoại giao nước này liên quan đến án tù mà chính quyền Hà Nội
dành cho Mẹ Nấm cho hay.
“Tự
do biểu đạt là một trong các giá trị vững chắc của chúng ta và là một
quyền con người cơ bản, vì vậy tôi quan ngại sâu sắc về việc kết án
blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Tôi hy vọng chính phủ Việt Nam sẽ trả tự
do cho Quỳnh và cho phép cô nhận Giải thưởng Phụ nữ Quốc tế Can đảm của
cô.”
Và trong thông
cáo của Bộ ngoại giao Mỹ đã nhấn mạnh: Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam thả Mẹ
Nấm và tất cả các tù nhân lương tâm ngay lập tức và cho phép tất cả cá
nhân tại Việt Nam tự do thể hiện quan điểm của mình và tụ họp ôn hòa mà
không lo sợ bị trừng phạt. Chúng tôi đã chứng kiến một số bước tích cực
về nhân quyền tại Việt Nam trong vài năm qua. Tuy nhiên, xu hướng gia
tăng các vụ bắt giữ và kết án các biểu tình ôn hòa kể từ đầu năm 2016
rất đáng lo ngại. Sự tiến bộ về nhân quyền sẽ cho phép quan hệ đối tác
Hoa Kỳ-Việt Nam đạt được tiềm năng tối đa.
Những lực cản nhân quyền
Những quan điểm của Bộ ngoại giao Mỹ được cho là “mềm mại” với “tiềm năng tối đa” là một cụm từ mang nhiều hàm nghĩa, đặc biệt việc gắn thương mại, an ninh Biển Đông với nhân quyền càng cho thấy tính chất chủ đạo của mối quan hệ hai nước.
Thực tế đã cho
thấy, Việt Nam đang tìm cách tận dụng yếu tố có lợi cho mình để đòi hỏi
Mỹ nhiều hơn, trong đó có con bài mặc cả mang tên nhân quyền.
Về điều kiện thương mại hai quốc gia, vẫn tiếp tục duy trì sự tăng trưởng khá (dù thiếu hụt yếu tố TPP). Tại
Hội thảo “Tương tác thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ sau năm 2016” diễn ra
vào cuối năm 2016 tại Tp. Hồ Chí Minh. Ông Trần Ngọc Châu, Phó Chủ tịch
Hội hữu nghị Việt-Mỹ tin tưởng con số 57 tỷ USD trong 5 năm tới dù có
TPP hay là không. Và Mỹ, quốc gia đang có tăng trưởng xuất khẩu lớn vào
Việt Nam (lên đến 77% trong giai đoạn 2014-2016) sẽ tiếp tục mở rộng con
số này để biến Việt Nam thành một thị trường lớn của Mỹ, như cách ông
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius bày tỏ. Giai đoạn 2014-2016 cũng là giai đoạn gia tăng đàn áp nhân quyền theo chiều sâu như:
tiếp tục gia tăng bắt giam người bất đồng chính kiến vì các điều luật
mơ hồ (Bộ luật hình sự 2015), sử dụng bạo lực, sách nhiễu quyền tự do
ngôn luận, tự do biểu đạt; tiếp tục treo hai bộ luật quan trọng là Lập
hội và luật Biểu tình,...
Thứ hai, sự
kiện bỏ về của Phó chủ tịch Quân uỷ Trung Quốc Phạm Trường Long trong
sau cuộc hội đàm với chính quyền Việt Nam liên quan đến vấn đề Biển Đông
là một “điểm” giúp Việt Nam cân bằng được mối quan hệ với Mỹ. Bởi
cách thức Mỹ nhìn về Việt Nam vẫn là một yếu tố giúp hãm phanh Trung
Quốc trong tuyến đường thương mại quan trọng này. Và Biển Đông càng nóng
bao nhiêu, thì tính chiến lược trong mối quan hệ Việt - Mỹ càng lớn bấy
nhiêu. Tính chiến lược Biển Đông gắn liền với lợi ích quốc gia Mỹ, và
so với vấn đề nhân quyền thì rõ ràng là một chênh lệch đáng kể về độ
quan tâm.
Lực cản đến từ
thương mại và cả vấn đề an ninh hàng hải Biển Đông mà Việt Nam – với vị
trí địa chiến lược đang được hưởng khiến cho nhân quyền trở thành một
bài toán không hề thực sự dễ giải đối với mối quan hệ cả hai quốc gia.
Ngoài ra, Việt
Nam vẫn có một con bài liên quan đến vấn đề nhân quyền mềm. Đó là LGBT
được Việt Nam tiệm cận khá sát với Mỹ, thậm chí là trở thành một nước
nổi bật nhất châu Á về vấn đề này. Ngoài ra, trong đợt kiểm tra định kỳ
nhân quyền cừa qua, Việt Nam cũng đã được đánh giá “khá” trong cam kết
quyền con người (không liên đới nhiều đến các quyền chính trị - dân sự
quan trọng), trong đó có việc đang tiến đến giảm và bãi bỏ nạn tử hình.
Bên cạnh đó,
thành tựu xoá đói giảm nghèo cũng là một con bài hỗ trợ Việt Nam “đàm
phán tốt” với Washington. Và rõ ràng, Việt Nam đã tận dụng yếu tố này.
Chính nó đã khiến cho Thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn đề cập đến
việc: chứng kiến một số bước tích cực về nhân quyền tại Việt Nam trong vài năm qua.
Sự điên cuồng tấn công nhân quyền
Bằng cách sử
dụng những yếu tố sẵn có nêu trên, cùng với những quan điểm mơ hồ dựa
trên các điều luật bảo vệ an ninh quốc gia, Việt Nam đã càng tìm cách
củng cố các đợt tấn công vào những người đấu tranh nhân quyền, hình
thành những đợt truy bắt có liên quan đến chủ đề “trao đổi thương mại và
an ninh” với Mỹ. Thậm chí, ngay cả phiên tòa cũng được đánh giá là một
cuộc tấn công không hơn không kém.
Nó biểu hiện
cho sự “cuồng tín” trong bảo vệ chế độ, và mọi quan điểm trái chiều đều
bị loại bỏ không thương tiếc. Điều này hàm nghĩa, chính quyền Việt Nam
coi việc tuân thủ ngĩa vụ nhân quyền quốc tế, hay chính những điều luật
về nhân quyền là một trò chơi câu chữ, chứ không hề thực tâm cho một sự
nắm bắt – tuân thủ và hiện thức hóa nó tại Việt Nam.
Liên quan đến
phiên tòa lịch sử của Mẹ Nấm, các báo quốc tế khi viết cũng đã trích dẫn
quan điểm của các chuyên gia Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, khẳng định,
phiên tòa này là “được thiết kế” nhằm đe dọa các nhà hoạt động [môi
trường] Việt Nam. Tính chất thủ đoạn dành cho sự răn đe cao đến mức, các
quyền cơ bản nhất của một người đứng trước tòa án đều bị nhà cầm quyền
lột bỏ.
Tính chất
“thành thạo” của đối chác nhân quyền và áp dụng các hình thức tinh vi,
sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị của nhà cầm quyền của Việt Nam cũng
chính là nguồn cơn, khiến LS Lê Công Định phải phẫn nộ mà khẳng định
rằng: “ĐẢ ĐẢO phiên tòa lố bịch xét xử Mẹ Nấm! Dù kết quả ra sao, đó sẽ
là bản án của chính chế độ cộng sản phi nhân này” .
Với những nhà
đấu tranh nhân quyền khác, chính quyền Hà Nội cũng tìm mọi cách để bóp
chết khả năng đấu tranh. Sự điên cuồng đến mức, nhà cầm quyền sẵn sàng
hủy bỏ quốc tịch Việt Nam đối với công dân có song tịch, và tìm mọi cách
thức (kể cả bắt cóc) để di lý họ rời khỏi Tổ Quốc. Biến những nhà đấu
tranh trở thành những công dân không còn được mang quốc tịch của nơi mà
họ từng sinh ra và gắn kết. Nhà giáo Phạm Minh Hoàng cũng là một trường
hợp tương tự.
Người Việt cần làm gì!?
Mỹ vẫn là một
yếu tố cần cho việc thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam. Thực tế cho thấy,
sự ra đời của các tổ chức đấu tranh hay phổ cập nhân quyền (được công
nhận hoặc không công nhận) tại các tỉnh thành vẫn được Mỹ chào đón và
lên tiếng sẵn sàng hỗ trợ. Ngoài ra, các cách thức truyền thống như lên
tiếng phê phán, hỗ trợ người tỵ nạn chính trị cũng được Mỹ tiếp tục lưu
tâm.
Tuy nhiên,
người Việt vẫn cần phải nhớ đó là yếu tố “cần”, còn muốn tạo điều kiện
cho sự chuyển đổi tích cực tại Việt Nam thì sự vận động tự thân vẫn là
điều cần nhấn mạnh.
Nhà hoạt động
xã hội dân sự - TS. Nguyễn Quang A đã không sai khi nhấn mạnh rằng: “Tôi
luôn nói với những người đồng nghiệp, rằng tôi đánh giá cao sự hỗ trợ
của bên ngoài, nhưng chúng tôi không thể dựa vào sự hỗ trợ [hoàn toàn]
từ quốc tế.”
Do đó, tính “tự
thân” cần phải là điều tiên quyết trong thúc đẩy nhân quyền. Sự tự thân
đó bao gồm cả việc thành lập các tổ chức, tự chủ tài chính, tổ chức cơ
cấu tốt, nhân sự trẻ và có sự chuyên nghiệp,... Tuy nhiên, một vấn đề
mang tính cốt lõi trong bài viết này là cần phải tạo ra một sự đoàn kết
về một mục tiêu chung giữa các tổ chức/ cá nhân xã hội dân sự được chính
phủ công nhận hoặc không. Bởi hiện nay, dù cùng mục tiêu thúc đẩy nhân
quyền, nhưng giữa hai loại hình tổ chức này vẫn tính kỳ thị và có phần
nhìn nhau... nửa mắt. Khái niệm “tinh hoa xã hội dân sự” hay bình dân xã
hội dân sự vô tình khoét sâu vào tương lai hợp tác và sự đồng thuận
trong phương hướng làm việc vì một Việt nam dân chủ. Nếu vấn đề này
không được giải quyết tốt và nhanh chóng thì nguồn lực để tạo ra sự thay
đổi là tổng hoà nguồn lực xã hội sẽ không được tìm thấy và kết quả là
sẽ không có một sự thay đổi mang tính đột phá nào trong tương lai.
Câu chuyện Mẹ
Nấm hay nhà giáo Phạm Minh Hoàng vẫn là câu chuyện về sự lên tiếng lâu
dài hay ngắn hạn; giữa sự đồng thuận chung của các loại hình tổ chức xã
hội dân sự hay là không! Và các nhà đấu tranh nhân quyền có lẽ phải đứng
trước một câu hỏi liên quan đến sự bạo tàn ngày càng gia tăng của chính
thể: đoàn kết hay là chết, sáng tạo đấu tranh hay bị triệt tiêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét