Theo blog Vương Trí Nhàn
LÀM GIÀU NGAY TRONG CHIẾN TRANH,
TRƯỜNG HỢP MỘT NGƯỜI HOA Ở ĐÀ NẴNG 1858
Xứng với cái tên gọi tổng quát “Xứ
Đông dương thuộc Pháp’, cuốn hồi ký của Paul Doumer quả thật bề bộn tài liệu.
Tuy vậy tác giả vẫn dành tới bốn trang chữ nhỏ (từ 98 tới hết 101) để nói về một
chuyện liên quan tới khâu hậu cần trong những ngày đầu của cuộc chinh phục, tức
là khi chiến thuyền của Pháp tới Đà Nẵng.
Chuyện này, do Bichot, về sau từng
là Tổng tư lệnh quân đoàn Pháp ở Đông dương kể lại.
Theo Doumer nó không chỉ cho thấy
sự có mặt của người Hoa ngay cả ở những nơi ngoài biên giới nước họ mà còn “sự
tháo vát và tinh thần thương mại” của họ “cách thức giúp họ len lỏi vào mọi
nơi” kể cả những nơi tưởng không có chỗ cho buôn bán.
Chuyện kể rằng khi đội quân trong
đó có trung úy thủy quân lục chiến Bichot tới Đà Nẵng, khu vực này lúc đó còn
là một làng chài hoang vắng. Chưa được hai ngày thì thấy một chiếc thuyền nhỏ
xuất hiện, trên thuyền có một người Hoa mang theo một túi nhỏ.
Khi xin được phép mở cái đẫy ra để
bán các thứ hàng mà đám quân viễn chinh cần, anh ta bầy ra đủ cả kim chỉ cúc
áo, thuốc lá xà phòng, bút chì bút mực và quản bút, giấy, những lọ mực nho nhỏ,
cuối cùng là hai chai rượu mùi.
Mặc dù rất thích tôi vẫn không thể
chép ra đầy đủ đoạn văn hơn hai ngàn chữ này. Ta hay nghĩ các chính khách là những
kẻ rất khô khan không bao giờ để ý những chi tiết một phần. Mà chắc chắn hơn –
trừ những trường hợp mị dân - còn phần đông họ muốn giấu mình đi để cho thiên hạ
càng thấy mình xa lạ càng hay.
Đằng này Doumer, người từng đứng
đầu xứ Đông dương (1897-19020) và về sau từng ngồi ghế tổng thống Pháp 1931-32,
ông tác giả hồi ký này lại có một bút pháp hết sức sinh động, nhất là trong những
chi tiết miêu tả, nó là dấu hiệu của một óc quan sát sắc sảo.
A Tác, tên người Hoa nọ được
Doumer xác định như một kẻ khôn ngoan lõi đời tháo vát giỏi tổ chức công việc.
Ngay trong chuyến hàng đầu tiên,
các chiến binh người Pháp nhận ra là đã gặp anh ta ở Quảng Châu, trong một quán
hàng mà vị con dân của thiên tử nhà Thanh này mở gần các trại lính Pháp – lúc
này Pháp cũng đang có mặt ở miền Nam Trung Hoa.
Công việc tiếp tế kéo dài tới khi
Pháp tạm rút. Doumer dẫn lại lời Bichot.
"Một vài tuần sau đó chúng
tôi gặp lại A - Tac, nhưng lần này trong một cửa hàng đẹp đẽ đặt ngay tại nhà
anh ta ở Nam Kỳ. Hai mươi năm sau, khi tôi trở lại Đông dương, với chức đại tá
chỉ huy trưởng trung đoàn lính khố đỏ An nam, tôi thấy A-Tac đã thành một trong
những thương nhân lớn nhất của Sài Gòn. Ít lâu sau A-Tac qua đời nhưng cửa hiệu
của anh ta vẫn còn" (cuối trang 101)
* * *
Để hiểu về sự giàu có của người
Việt mình, rất nên so sánh với sự giàu có của người Trung Hoa, đấy là một chủ đề
tôi đã nêu đây đó và đã được một vài bạn đọc đồng tình.
Trong cái đề tài quá rộng này, nếu
ta chỉ nói tới việc làm thương nghiệp của người Hoa, thì chắc chắn cũng là quá
sức với bất cứ ai.
Ở đây, tôi chỉ muốn dừng lại ở một
hai ý tưởng cụ thể:
+ người Trung Hoa giàu không chỉ
vì bên cạnh việc sản xuất ở đó CON NGƯỜI NGHỀ NGHIỆP của họ phát triển mà còn
vì họ biết tổ chức lưu thông và phân phối
+ mà chung quanh câu chuyện lưu
thông phân phối, nếu chỉ nói rằng họ năng động linh hoạt còn quá đơn giản, cái
chính là họ có một cách nghĩ tổng quát rộng rãi về cuộc sống về xã hội.
Nói cho to tát ra , quan niệm về
sứ mệnh làm người và nhu cầu của con người ở họ đã phát triển.
Câu chuyện về anh thương nhân người
Hoa trong cuộc chiến tranh ở VN cuối XIX đã nói lên điều đó.
Đối với anh ta sự buôn bán là điều
thiêng liêng nhất của cuộc sống. Nó quan trọng hơn tất cả mọi điều. Bởi nó là
nhu cầu của tất cả mọi người cũng như sự phát triển là nhu cầu của mọi cộng đồng.
Chiến tranh, dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là chốc lát, chỉ phát triển mới là vĩnh
viễn. Kẻ thắng trong buôn bán sẽ là kẻ thắng trong mọi cuộc chiến tranh, họ thắng
trong cuộc đời này nói chung.
* * *
Nói tiếp câu chuyện mà Doumer vừa
kể. Sau chuyến đi lần đầu, người Hoa nọ còn có mấy chuyến tiếp theo, mang đủ
các thứ hàng và lần nào cũng được những người An Nam “trần như nhộng” tiếp sức.
Có lần A-Tac mang theo một buồng
chuối, do một người An Nam cõng. Hãy so sánh hai vai chính.
Một bên A Tac linh hoạt chủ động
luôn luôn nở nụ cười vui vẻ và cả những cái nháy mắt của kẻ “đi guốc vào bụng mọi
người’.
Còn anh nông dân địa phương thì
hiện ra ngờ nghệch có vẻ như hoàn toàn không hiểu điều gì đã xảy ra.
Theo Bichot, thoạt đầu anh nằm cuộn
tròn trên bãi có, đôi mắt trợn tròn như gặp hổ. Nhưng mà kìa... hổ biết ăn chuối,
việc đó có vẻ khiến anh an tâm, tiếp theo là nỗi tò mò muốn biết những người
lính kia là thế nào.
Nhưng chỉ có thế. Không bao giờ
anh ta trở thành một thứ A Tác.
Câu chuyện trên xảy ra hơn một thế
kỷ trước, mà sao vẫn là một gợi ý tốt để ta cùng nghĩ về ngày hôm nay, Tình thế
bảo khác cũng đúng mà giống nguyên như cũ cũng đúng. Dù trên danh nghĩa, con
cháu “người An Nam” kia đã trở thành chủ nhân ông đất nước này, nhưng thực tế
điều gì đang xảy ra, chúng ta đều biết. Đã đến thời mà những nhiệt tình yêu nước
là không đủ nữa, để phát triển đất nước cần có một cách nghĩ khác so với cách
nghĩ những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta chỉ biết tiếp tục cách làm cách nghĩ
của ngày hôm qua, chả biết học ai và trước tiên không biết mình là thế nào, thế
giới này là thế nào.
Rồi chúng ta khác được bao nhiêu
so với ông cha ta 1858?
Rồi chúng ta sẽ đi tới đâu?
NGƯỜI HOA Ở KINH THÀNH HUẾ CUỐI
THẾ KỶ XIX QUA CON MẮT CỦA MỘT NGƯỜI PHÁP
Dưới nhan đề “Huế những năm 1876
– 1877 “, số 5-2003 và các số tiếp theo của tạp chí “Nghiên cứu Huế” giới thiệu
cuốn “Vương quốc Annam và người Annam” của J.L. Dutrueil De Rhins.
Được viết từ 1879 song những
trang nhật ký hành trình này gợi cho chúng ta những nét khái quát về nước Việt
thời ấy từ đó giúp ta hiểu một vài phương diện tình hình hôm nay. Nào là một
đám đông sống lười biếng uể oải nhưng lại luôn luôn náo động vì chuyện cướp
bóc. Nào là người Hoa thì làm chủ mọi sinh hoạt kinh tế và do đó thao túng cả
các mặt quan hệ khác.
Dưới đây là phần trích dịch hai
đoạn ngắn:
* * *
Con đường mở ra trước mặt hai cây
cầu hai bên là tiệm người Hoa. Chính phủ An Nam vốn nghi ngại người ngoại quốc
lại mở cửa đối với người Hoa, nhưng chỉ cho phép họ ở mức độ thấp. Tại Bắc Kỳ,
đông người Hoa hơn, có lẽ không đến mười ngàn người Hoa, và trong mỗi tỉnh ở
Trung Kỳ, có không đến năm trăm. Và như thế, ở Huế có khoảng hai trăm người ở
Thuận An, phần lớn rải rác trên thuyền bè người Hoa hoặc làm việc cho hoàng thượng,
từ trăm rưỡi đến trăm tám ở Chợ Được và chưa tới hai chục người ở chung quanh.
Đó là chưa kể ba chục người Hoa từ Sài Gòn ra xây nhà cho phái bộ mới của Pháp.
Dù không đông, người Hoa đã chiếm lĩnh phần thương mại quan trọng; các tiệm ở
Chợ Được của họ rất giống với những cửa hàng tạp hóa: ta bắt gặp ở đây nhiều
hơn hết là vải Tàu và Anh, lụa và cô tông, đồ sành, gốm, đồ gỗ, trà, thuốc phiện,
lương khô Tàu, thuốc hút, giấy, đồ chơi, các món thờ cúng, dụng cụ làm bếp… Các
người Hoa đến từ nhiều tỉnh khác nhau: Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến… và có vẻ
đoàn kết với nhau lắm, dù thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau. Nơi họ nhận thấy sự
kiêu hãnh nòi giống và ý thức khả năng trên hẳn người An Nam. Các người Hoa chỉ
rặt buôn bán này, vốn chẳng lãnh sự hay tập đoàn gì bảo vệ mình, vẫn đi đứng ngẩng
cao đầu trước mặt người An Nam, quan lớn, quan nhỏ gì cũng thế, không nhường bước
cho ai, biểu lộ một thứ thương hại trịch thượng đối với người bản xứ, và càng
được nể nang hơn thêm.
* * *
Đoạn dưới đây dành để nói về đám
cướp bể người Hoa và cách nhà Nguyễn dùng họ để trị dân và chống lại quân Pháp:
MỘT LẦN ĐI CỨU THUYỀN
Nói chung lính canh An Nam canh
phòng kém, luôn cả khi họ đông người và luôn cả khi trời tốt. Chẳng phải là ngủ
hoài mà họ lại chồm hổm, gà gật gần như là ngủ vậy, chẳng cần biết chuyện gì xảy
ra chung quanh, chỉ chăm chăm chờ đến giây phút những cây gậy của quan trên quất
vào lưng mà thôi. Toàn một tuồng vờ vịt nơi đám người u mê này.
Khi tôi trở lên boong, sớm hôm
sau, vị chỉ huy người Nam và Cocles vui vẻ đến bắt tay tôi và chuúng tôi duyệt
hàng ngũ bầy con rối. Cả bầy đều trang bị, kẻ dáo người gươm hoặc súng bắn đá.
Tôi nảy ra ý nghĩ bắt tháo đạn ra: vì trời hồi đêm có phần ẩm ướt, chẳng nghe
phát súng nào, và tôi chuồn gấp để khỏi phì cười vào mặt viên tướng phường tuồng
kia.
Một lát sau, một chiếc tam bản
chèo tới bên hông, và chủ thuyền cho chúng tôi hay rằng tàu Đằng Huy chắc hẳn nằm
cách đây hai chục hải lý mạn Bắc, rằng chúng tôi vừa qua đêm gần kề hai chiếc
thuyền buồm đánh cắp giấu ở trong đảo, và thêm một tin nữa là dân địa phương mấy
hôm nay quá lo sợ bỏ bờ biển mà đi rồi.
Người An Nam không thể nào nom thấy
thuyền buồm mà không khỏi ngờ là thuyền cướp biển, và tôi cũng có xu hướng nghĩ
rằng mấy con thuyền ấy cũng hành sự như thế thật nếu gặp dịp, nhưng làm thế nào
nhận diện? Và giả dụ thuyền người Hoa và người Nam có giấy tờ hoặc giấy chuyển
hàng hợp lệ đi nữa, thử hỏi ai có thể đứng ra bảo đảm đây? Chính phủ, tức là
đám quan lại, có vẻ không hề nao núng, cướp biển là chuyện thường tình như chuyện
trộm cắp thôi. Hai phía cùng có lợi, theo cách của mình, mặc xác mọi người hoặc
mặc xác Nhà nước. Cướp Hoa đáng sợ hơn cướp Nam và được hưởng ân xá hoàn toàn.
Một chiếc tàu ngoại quốc có lần tóm được một chiếc thuyền cướp biển người Hoa
đem giao nộp cho triều đình Huế, tại đây người ta thả chúng nó ngay, một là để
khỏi gây rắc rối với Trung Hoa, hai là để dung dưỡng bọn cướp này thành đồng
minh hữu dụng đối đầu với một kẻ thù trăm lần đáng sợ hơn: người Pháp. Người An
Nam đủ trí óc để không chỉ nhắm phóng thích đám kia đâu; họ trưng dụng chúng
nó, và cậu Thân nhất mực bảo rằng, trên đám thuyền Hoa phụng sự cho hoàng thượng
ở Thuận An, già nửa số người là chính chúng nó, và chúng nó về sau chỉ cướp bóc
khi tìm được phe cánh che chở mà thôi. (Bửu Ý dịch)
NGƯỜI HOA & GIỚI QUAN CHỨC
ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVII -XIX
Sự có mặt của người Hoa trên đất
Việt là điều không phụ thuộc vào ý muốn của ai. Dân hai xứ sống cạnh nhau, nên
quan hệ với nhau là chuyện tự nhiên. Cái cách mà người Hoa có mặt ở xã hội Việt
từ nhiều đời nay là rất khó chịu. Nhưng tại sao nó lại kéo dài với nghĩa họ
ngày càng lấn tới.
Để cắt nghĩa có lúc tôi đã nêu giả
thiết sau đây để làm việc.
Theo tôi, trong trường hợp này, nhân
tố Trung Hoa là sự cần thiết cho xã hội Việt Nam
Vừa nghĩ xong đã thấy ngần ngại,
không muốn tiếp tục đi sâu thêm.
Nhưng thôi đã nghĩ xin cứ nói.
Cả ở các đô thị Đàng Trong cũng
như Đàng ngoài, người Hoa đến đây và làm nhiều nghề từ mở cửa hàng tạp hóa, đồ
tể, thợ may, cho đến mở đại lý thu mua hàng nông thôn và cho vay lấy lãi ... Nhờ
họ mà phố xá có đủ các mặt hàng nhập từ Anh Hồng Kông chưa kể là hàng Tàu.
Cả cuốn sách “Vương quốc Annam và
người Annam” của J.L. Dutrueil De Rhins mà tôi nói trong bài trước cũng như các
ghi chép của nhiều người Âu đến Sài Gòn trong các thế kỷ từ XVII đến XIX đã in
rải rác ở ta mấy chục năm nay đều mô tả như vậy.
Những người Hoa ít ỏi này kiếm được
nhiều tiền hơn người Việt và tự coi như chủ nhân thành phố.
Đúng ra trong khi người Việt là cả
một đám đông không có mặt, thì họ là cái xã hội công dân thực sự.
Quan lại phong kiến lương bổng
không bao nhiêu, có người dân trong tay thật, có thể đánh họ giết họ làm nhục họ
nhưng gần như không thể bóp nặn gì được họ.
Vua quan ngầm bảo nhau phải quay
sang người Hoa để tìm đường sống. Trong cuốn nhật ký tôi đang nói có một chi tiết
nho nhỏ đáng chú ý.
Nhiều người Pháp khi mới sang cần
người giúp việc. Đến thế kỷ XX này, việc đào tạo người giúp việc đúng chuẩn quốc
tế ở Việt Nam còn khó khăn, nữa là mấy thế kỷ trước. Ai thay vào chỗ đó, chính
là người Hoa.
Tác giả J.L. Dutrueil De Rhins kể
lương của người Hoa giúp việc cho ông ta bằng lương của triều đình phong kiến ở
Huế trả cho quan chức đứng đầu lục bộ, thế thì làm gì giới chức địa phương
không bám lấy người Hoa mà sống.
* * *
Trong bài viết nhắc lạị việc người
Hoa buôn bán ở Đà Nẵng trong cuốn sách của toàn quyền Doumier, tôi đã lưu ý
thái độ đối với người nước ngoài là chỗ khác nhau một trời một vực giữa người
Việt và người Tàu.
Với đám tây phương đến buôn bán
hay dòm ngó gây chiến, trong khi người Việt là dân địa phương lảng tránh hay
nghi kỵ thì người Tàu dù là dân ngoại nhập ăn đậu ở nhờ lại tỏ ra linh hoạt chủ
động trong tiếp xúc.
Đọc một số hương ước, đã thấy có
điều khoản đại ý nói khi có người lạ tới làng cấm người dân thường không được
tiếp xúc, trái lệnh sẽ lĩnh đủ hình phạt.
Khi quản lý quốc gia, giới quan
chức -- và mở rộng ra, cái mà ta hay gọi một cách đầy căm hờn là “bè lũ thống
trị”, thực chất là những người quản lý xã hội ở ta trong quá khứ -- cũng giữ
cái lệ như vậy.
Nhưng xét một phía khác phải thấy
việc cấm đoán nói trên lại làm mất đi sự tiếp xúc tự nhiên giữa các cộng đồng
và bằng cách đó, giới chóp bu xã hội đã tự chặt chân chặt tay mình, tự mình hại
mình.
Họ mất những sợi dây ăng-ten cần
thiết.
Bị cấm đoán, con người ở các tầng
lớp dưới đáy thực chất là đông đảo nhân dân mất hết tự tin không đủ sức nói
chuyện với người lạ đừng nói chi là theo cấp trên chống lại đám ngoại nhập cũ
và mới.
Bấy giờ giờ giới quan chức lại phải
– dù rất căm ghét -- dựa vào người Tàu.
Trong những cuộc tiếp xúc chính
thức đầu tiên phía ta rất thiếu phiên dịch. Mà Hoa kiều thì bằng thiên tính dân
tộc của họ, đã có đủ điều kiện để vừa làm việc này giúp đỡ hai bên vừa thao
túng kiếm lời.
Khi bắt buộc phải lựa chọn Hoa kiều
làm trung gian -- thực chất là làm cái tai để nghe cái mắt để nhìn, bộ óc để
nghĩ cho mình --, giới quan chức có thể khó chịu một chút.
Nhưng trong đó thả nào chẳng có
người tặc lưỡi nghĩ thà phụ thuộc người Hoa còn hơn để dân đen bên dưới có quyền
tiếp xúc tự nhiên với Tây phương, nó mất đi cái đất kiếm ăn đời đời mà dòng họ
hay phe phái phải chinh chiến mãi mới giành được.
Họ không còn nghĩ gì về chủ quyền
quốc gia nữa.
Giả sử có ai đặt vấn đề, họ sẽ
nói dối, và trước tiên, mỗi người nói dối chính mình, mọi người cùng nói dối
nhau.
* * *
Trước thời gian chuyến J.L.
Dutrueil De Rhins đến VN làm việc, có một người Anh là Crawfurd – ông này có thời
gian làm toàn quyền Singapore - cũng đã đến cả Vũng Tàu lẫn Đà Nẵng, Huế.
Crawfurd kể lúc tới Sài Gòn trong
lúc ông đang thơ thẩn thì ba gia đình Trung Hoa thuộc loại khá giả nhất đã ra cửa
mời ông vào chơi.
Bên trong những ngôi nhà của họ
trông thật rộng rãi, đồ đạc rất nhiều và tiện nghi cũng rất đầy đủ.
Và Crawfurd lại càng lấy làm ngạc
nhiên khi thấy họ đã làm những bữa ăn thịnh soạn để thết đãi không những ông và
đoàn tùy tùng và cả những sĩ quan Ấn và Việt theo hầu nữa.
Những người Trung Hoa đó, tự giới
thiệu là con cháu của những người đã di cư từ Trung quốc sang từ hàng mấy thế kỷ
trước, những người đó đã khiến Crawfurd cảm phục, ông đã mô tả họ như những người
“rất thông minh và lịch thiệp”.
Câu chuyện của Crawfurd tôi dẫn
ra ở trên là lấy từ các bài giảng của Patrick J. Honey “Việt Nam vào thế kỷ 19
qua hồi ký của Jhon White, John Crawfurd, George Gibson” in trong “Nghiên cứu
Huế” tập I, 1999.
Đoạn cuối bài này được Honey còn
dẫn ra một chi tiết về một phái đoàn VN qua Miến để bàn bạc với người Miến về
việc cùng tấn công Xiêm La.
Tác giả cho biết “phái đoàn Việt
Nam gồm ba vị đại thần, một viên bí thư và một đoàn tùy tùng chừng 70 người.
Người ta cũng lấy làm lạ rằng có
sự lãnh đạo của một người mà dân Miến gọi là Ông Kinh vì ông ta là người Trung
Hoa chứ không phải là gốc Việt.
Phụ thân ông là một tên giặc Tầu
đã từ miền nam Trung Quốc đi xuống và đặt hành dinh ở Côn Lôn. Ở đó ông [bố]
này đã gặp vua Gia long bấy giờ đang lẩn trốn quân Tây Sơn và ông đã hứa giúp đỡ
vua. Tức thời vua Gia Long bổ nhiệm ông làm thủy sư đô đốc hạm đội từ đó.”
Mẩu chuyện này cho thấy người Tầu
đã can thiệp vào các việc cơ mật của quốc gia, mối quan hệ họ với đám chóp bu
đã bắt rễ từ trong chiến tranh, tức kéo dài qua nhiều thế hệ, và ngày càng có sức
chi phối mạnh mẽ.
Trong một dịp khác tôi sẽ nói
thêm về việc người Trung Hoa giúp bộ máy quản lý quốc gia thực thi việc cai trị
như thế nào.
Nhưng đến đây qua ba điểm nói
trên đã có thể tạm kết luận rằng trong các thế kỷ XVII- XIX, Hoa kiều đã trở
thành yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và duy trì quyền lực của giới quan chức
Đàng trong.
Mà cần cho giới quan chức là cần
cho xã hội Việt Nam chứ gì, vì bộ máy quan chức thời nào cũng chính là cái động
cơ dắt dẫn xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét