Nguyễn
Đăng Quang
Cách đây 4 năm, trước việc các LLVT (gồm quân đội và công an) bị
huy động tùy tiện và trái pháp luật vào các cuộc cưỡng chế, giải tỏa đất đai
bất hợp pháp, và nhất là vào việc ngăn chặn, cản trở các cuộc biểu tình yêu
nước của toàn dân phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo
Tổ quốc, ngày 2/9/2014, hai mươi (20) cựu sĩ quan Quân đội và Công an chúng tôi
đã cùng nhau ký kiến nghị gửi tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (sau đây gọi tắt là “Kiến nghị 20”).
Kiến nghị nêu 4 yêu cầu rất cụ thể. Tôi xin đề cập 2 trong 4 đòi
hỏi của “Kiến nghị 20” này như sau:
Kiến nghị 1 nêu rõ: “Không được huy động Quân đội và
Công an vào bất cứ việc gì có hại cho nhân dân. Quân đội có nhiệm vụ Hiến định
là “Bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm”, do vậy tuyệt đối không được huy động Quân
đội vào những việc mang tính đối kháng với nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn
chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Công an có nhiệm vụ Hiến định là “Bảo
vệ An ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống
tội phạm”, do vậy tuyệt đối không lạm dụng Lực lượng Công an vào việc đàn áp
những người dân vô tội đấu tranh đòi giải quyết những quyền lợi hợp pháp của
mình.” (Hết trích 1)
Kiến nghị 4 nêu cụ thể: “Là người chủ và người bảo
vệ đất nước, Nhân dân và LLVT Việt Nam phải được biết chính xác hoàn cảnh thực
tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ với nhân dân về thực trạng
quan hệ Việt-Trung, và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới,
biển đảo… Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã
công bố nội dung thỏa thuận giữa 2 bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong
muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc
Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng và Quảng Tây… Phía Trung
Quốc đồng ý và chấp nhận yêu cầu nói trên, và cho Việt Nam thời hạn 30 năm
(1990-2020) để ĐCSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập
đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”. Chúng tôi không rõ thật giả thế nào,
yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại
Thành Đô năm 1990” (hết trích 2).
Kiến nghị trên được gửi ông Tư Sang và Ba Dũng đã tròn 4 năm.
Đến nay cả 2 ông đều đã nghỉ hưu để “ráng làm người tử tế”. Song rất buồn và
đáng trách, giống hệt như các Lãnh đạo cao cấp khác, 2 ông Tư và Ba này đã
không trả lời “Kiến nghị 20” một câu. Phải chăng trong đầu và trái tim họ đã
mất hết suy nghĩ về nghĩa vụ và trách nhiệm của người lãnh đạo đối với công
dân, mà trong trường hợp này lại là đồng đội, đồng chí của mình? Đây quả là
cách ứng xử lạ lùng và kỳ cục nếu không nói là thiếu chuẩn mực đạo đức và luật
pháp, mà chỉ duy nhất thấy ở lãnh đạo các quốc gia theo thể chế độc tài, toàn
trị.
Trong số 20 cựu sỹ quan LLVT ký tên, người trẻ nhất nay cũng đã
77 tuổi, còn người cao tuổi nhất đã bước sang tuổi đại thượng thọ: 103 tuổi. Đó
là lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại sứ
đặc mệnh toàn quyền VN tại TQ. Tướng Vĩnh vào Đảng năm 1939, được phong hàm
Thiếu tướng năm 1959. Trong tất cả sỹ quan cấp tướng do đích thân Chủ tịch HCM
tấn phong, cụ là người duy nhất còn sống cho đến nay. Lão tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh kể lại cho tôi chuyện sau: Lúc đương chức, cả 2 ông Tư Sang và Ba Dũng đều
cử phái viên đến thăm cụ. Một lần ông Ba Dũng cử 1 vị tướng đến thăm với mục
đích thẳng băng là yêu cầu cụ bớt phê phán và lên án ông ta. Ông tướng này (chỉ
bằng tuổi con cụ) nói: “Bác nguyên là Trung ương Ủy viên, tôi cũng là nguyên
Ủy viên Trung ương. Bác là sỹ quan cấp tướng, tôi cũng cấp tướng.” Nghe đến
đây, cụ bèn ngắt lời khách: “Không dám. Tôi vào Đảng khi anh còn chưa sinh.
Còn khi tôi được phong hàm tướng và tham gia BCHTW, có lẽ lúc đó anh mới chỉ
học cấp 1. Anh so sánh như vậy là khập khiễng. Vả lại khi tôi được phong tướng
và được bầu vào Trung ương, thời kỳ ấy Đảng ta còn rất trong sạch, chứ đâu như
bây giờ. Nay tất cả là do đồng tiền chi phối và quyết định, khác hẳn trước đây”.
Biết là thất thố và không thể đối đáp tiếp, ông tướng nọ vội vàng cáo lui, lẳng
lặng ra về.
Đến nay có 1/5 số ký “Kiến nghị 20” đã rời cõi tạm về nơi vĩnh
hằng. Đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật và 4 đại tá: Bùi Văn Bồng, Phạm Hiện, Nguyễn
Thế Trường và Lê Hồng Hà. Xin mạn phép hỏi ông Tư Sang và Ba Dũng: Vì lý do gì
mà các ông không phúc đáp và trả lời 4 vấn đề nêu trong “Kiến nghị 20” gửi các
ông 4 năm trước? Thực sự là do đâu? Chắc ở dưới suối vàng, 5 sỹ quan quá cố và
khả kính kia sẽ không tha thứ cho 2 ông về tội đã phớt lờ bổn phận và đạo lý
của mình. Bốn yêu cầu trong “Kiến nghị 20” đâu phải là những đòi hỏi vô lý,
ngược lại đấy là những vấn đề rất thiết thực, nằm trong khuôn khổ và phù hợp
với Hiến pháp. Trong số ký “Kiến nghị 20” có nhiều người đáng tuổi cha chú hai
ông, họ góp phần xương máu trong 3 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để các ông
được cơ cấu “làm đày tớ của dân” (lời Chủ tịch HCM). Đảng bố trí các ông
ngồi vào 2 trong 4 ghế tứ trụ triều đình để phục vụ ai? Các ông đã coi khinh,
không lên tiếng trả lời, vậy lương tâm các ông còn không? Các ông hành xử bất
tín, bất nghĩa, vô chính trị như vậy là do tự ý cá nhân hay theo chỉ đạo của
ai, thưa 2 ông?
Mong rằng cách ứng xử thiếu văn hóa, khiếm nhã và vô đạo lý nói
trên sẽ không bao giờ lặp lại trong sinh hoạt chính trị, nhất là trong tư duy
của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta.
____
(P/s: Xin mời quý độc giả đọc toàn văn bản “Kiến
nghị 20” dưới đây:)
KIẾN NGHỊ của 20 cựu sĩ quan LLVT gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính
phủ CHXHCN Việt Nam
Ngày 2 tháng 9 năm 2014.
KÍNH GỬI:
– Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các Lực lượng Vũ
trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
– Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu
với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước
tình hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc
gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước
một số điểm như sau.
1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân
dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho
Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân dân, nên
không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của
Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ
Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự
vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc
biểu tình yêu nước ôn hòa… Để khôi phục uy tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ hiến định “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”, tuyệt đối không lạm dụng lực lượng
Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền
lợi hợp pháp của mình.
2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện
và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến
của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được Nhà
nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ nhận lịch sử,
xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng
nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là
sai lầm không được phép tái phạm. Để khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải
quyết những cách cư xử không đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ.
Đặc biệt, phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt
sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và
ngoài biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc đã
bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.
3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối
thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác
chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối
thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải là những kẻ tội
phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở trong hay ngoài bộ máy
cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân
dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng
giềng phương Bắc. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền
kinh tế của của chúng ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề
từ bỏ quyết tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế
giới thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền vững,
ví dụ như mối quan hệ giữa CHLB Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa Nhật Bản và
Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không thể vì những quan
niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác với các cường quốc tiên
tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng
và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.
4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng
vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà
nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về
những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng
kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành
Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố
nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn
sẵnsàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc
Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc
đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm
(1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết
cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. Chúng tôi không
biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân
biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc
gần đây của đặc phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với
phía Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội
dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các biện
pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Trung Quốc xâm
phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu đồ bá chiếm Biển
Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ thể gì, nhưng toàn dân và
toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ
và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận
thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch
thực trạng quan hệ giữa hai bên.
Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân
đội và Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng
vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc.
DANH SÁCH KÝ TÊN:
1. Lê Hữu
Đức, Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.
2. Trần
Minh Đức, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh hậu cần Mặt trận Trị Thiên – Huế.
3. Huỳnh
Đắc Hương, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam
tại Lào.
4. Lê Duy
Mật, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2, cựu Chỉ
huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) 1979-1984.
5. Bùi Văn
Quỳ, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh chính trị Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
6. Nguyễn
Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, nguyên Chính ủy Quân khu 4.
7. Bùi Văn
Bồng, Đại tá, nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân tại khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long.
8. Phạm
Quế Dương, Đại tá, nguyên TBT tạp chí Lịch sử Quân sự.
9. Nguyễn
Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội.
10.
Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, Ủy viên Đảng đoàn
Bộ Công an.
11.
Phạm Hiện, Đại tá, nguyên Chánh Văn phòng B.68 Đoàn chuyên gia
giúp Campuchia.
12.
Phạm Xuân Phương, Đại tá, nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu
Tổng cục Chính trị.
13.
Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an.
14.
Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội, nguyên Chủ nhiệm khoa Quản
lý kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
15.
Tạ Cao Sơn, Đại tá, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
16.
Đoàn Sự, Đại tá, nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục
Chính trị.
17.
Lê Văn Trọng, Đại tá, nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu
Bộ Tổng Tham mưu.
18.
Nguyễn Thế Trường, Đại tá, nguyên TBT báo Quân giải phóng Trung
Trung bộ.
19.
Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên cán bộ
Viện Lịch sử Quân sự.
20.
Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá, cán bộ lão thành cách
mạng, nguyên Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến – Bộ Tổng Tham mưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét