Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc (phải) và Bộ trưởng Ngoại giao Trung
Quốc Vương Nghị tại Hà Nội vào ngày 31 tháng 3 năm 2018. (Ảnh minh họa) AFP
Hai dự thảo luật gây nhiều tranh
cãi nhất và sóng gió nhất sau kỳ họp Quốc hội thứ 5, khoá XIV của Đảng Cộng sản
Việt Nam tạm thời đã có kết quả. Vấn đề là cả hai dự luật này đều bị người dân
phản đối với nguyên nhân có liên quan sâu rộng đến Trung Quốc và các chính sách
của Trung Quốc.
Nỗi khắc khoải từ năm 1951
“Tôi thấy cái nỗi khắc khoải nhất
của ông ấy là ông ấy lo cho âm mưu ngày càng lộ liễu, càng nguy hiểm của Trung
Quốc, độ can thiệp ngày càng sâu vào nội tình của đất nước Việt Nam.” Ngay lúc bấy giờ nỗi ray rức nhất
của ông là ông thấy mưu toan của Trung Quốc là bàn tay đã thọc sâu quá rồi vào
trong nội tình của đất nước.”
Nhân vật mà Giáo sư Tương Lai nhắc
ở trên là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong một lần gặp mặt vào tháng 5 năm 2008.
Cũng trong một bài viết mới nhất
do Giáo sư Tương Lai email cho chúng tôi, ông kể lại một số chi tiết cho thấy
“nỗi khắc khoải” của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thực chất đã xuất hiện từ năm
1951. Năm 1951 trở về sau khi vượt Trường Sơn ra Việt Bắc dự Đại hội II của Đảng,
ông Võ Văn Kiệt được cử “đi thực tế” rút kinh nghiệm về công tác thuế nông nghiệp
tại nông thôn miền Bắc. Từ khi đó, ông bắt đầu hiểu ra và nói rằng “dị ứng” với
những bài học mà các cố vấn Trung Quốc chuyển tải vào nước ta. Vì thế, ông từ
chối không đi Bắc Kinh và xin trở về ngay Nam Bộ.
Một số tài liệu ghi rõ, khoảng thời
gian năm 1946-1954 xảy ra cuộc chiến tranh Pháp – Việt Minh, không ai là không
biết tầm quan trọng của viện trợ của Cộng Sản Trung Quốc cho Cộng Sản Việt Nam.
Đặc biệt, một chi tiết quan trọng trong bài viết của tác giả Phạm Cao Dương vào
năm 2009 có ghi rõ: Trung tuần tháng 8 năm 1950, khi hai đoàn cố vấn quân sự, một
do Vi Quốc Thanh và Đặng Dật Phàm cầm đầu từ Quảng Tây và một do Trần Canh hướng
dẫn từ Vân Nam đến bộ chỉ huy tiền phương của Việt Minh ở Quảng Uyên, Cao Bằng
và được Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh đón tiếp và thuyết trình.
Theo ông Phạm Cao Dương, đây là
thời điểm then chốt bắn phát súng đầu tiên cho tầm quan trọng của viện trợ mà Cộng
Sản Trung Quốc dành cho Cộng Sản Việt Nam.
Chi tiết này được tác giả Qiang
Zhai đề cập thêm trong cuốn “China and the Vietnam wars” là trong chuyến đi Bắc
Kinh từ 25-6 đến 8-7-1955 của Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã đồng ý viện trợ 800 triệu
tệ (200 triệu USD) để xây 18 dự án, trong đó có nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà
máy điện Hà Nội, nhà máy dệt Nam Định.
Cũng theo tác giả Qiang Zhai, vào
tháng 5-1963, lúc miền Nam đang căng thẳng trong cuộc khủng hoảng Phật Giáo, Chủ
tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang Hà Nội, nói với Hồ Chí Minh: “Trung Quốc đang
đứng bên cạnh các đồng chí. Nếu chiến tranh bùng nổ,Trung Quốc là hậu phương.”
Theo lời kể lại của Giáo sư Tương
Lai, ông Võ Văn Kiệt đã nhìn thấy sức ép của Bắc Kinh thời điểm diễn ra Hội nghị
Genève. Việc Bắc Kinh viện trợ vũ khí và cố vấn giúp Việt Nam đánh thực dân xâm
lược nhằm tạo ra toan tính lâu dài để chờ ngày bành trướng, buộc chính quyền Việt
Nam phải ngừng chiến và chấp nhận vĩ tuyến 17.
Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 là câu trả lời rõ ràng nhất cho âm mưu bành trướng của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam. AFP
Sau đó, Đặng Tiểu Bình phát động
cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 là câu trả lời rõ ràng nhất cho âm
mưu bành trướng của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam.
Tựu chung lại, để nhận định một
cách khái quát nhất về thời điểm này, chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn cho biết:
“Suốt 4 ngàn năm lịch sử của
mình, cuộc chiến tranh chủ yếu của Việt Nam là với phương Bắc. Qua bao nhiêu thời,
từ khi Bắc thuộc rồi lấy lại độc lập. Có độc lập rồi thì đến thời tiền Lê, Lý,
Trần, hậu Lê, Nguyễn, Tây Sơn thì đều chống trả với phương Bắc. Ngay cả đến thời
kỳ cận đại thì năm 56 bị xâm lấn ở Hoàng Sa, 74, 79 rồi 88. Nhân dân Việt luôn
luôn phải phòng vệ trước phương Bắc mặc dù vẫn phải giữ cái hữu nghị đối với họ.”
Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thời gian gần đây, trong nước
tung ra một video lời phát biểu của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công
an, Giám đốc Học viện Chính trị Công an Nhân dân Trương Giang Long công khai cảnh
báo: “Trung Quốc, không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính chúng ta. Mà không phải
thời ông Tập Cận Bình đâu, ông khác lên cũng sẽ như vậy thôi. Câu chuyện là,
bao giờ họ sẽ lấy và lấy bằng cách nào…”
Theo Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu
Sơn, bắt đầu vào thập niên 90, cả Trung Quốc và Việt Nam đều bắt đầu chính sách
mở cửa. Ông đánh giá Việt Nam lúc đó có những cái tích cực hơn cả Trung Quốc.
“Những người chủ trương đổi mới
phải nói là ông Võ Văn Kiệt, là 1 trong những người thực hiện thành công, rất tốt
cái đổi mới, mở cửa cho Việt Nam. Cái đó tôi nghĩ không chỉ người trong nước mà
cả thế giới cũng công nhận như thế.”
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công
cuộc “Đổi mới” chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Với cuộc cải cách này, Việt Nam đã đưa GDP tăng trưởng
liên tục từ năm 1986 đến 1996 với mức tăng trưởng bình quân 6,6%/năm. Lạm phát
từ 3 con số được đưa về 12,7% năm 1995 và 4,5% năm 1996. Một thành tựu vẫn luôn
được nhắc đến khi nói về giai đoạn này là Việt Nam từ một nước thiếu ăn đã có
dư gạo để xuất khẩu.
Giáo sư Tương Lai cũng ghi nhận
thành tựu kinh tế của Việt Nam giai đoạn này là nét độc đáo của một tầm nhìn
mang đậm hình ảnh của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
“Trong bối cảnh ấy, ông Kiệt đã
tranh thủ mời những chuyên gia của chế độ cũ tham gia với ông, như ông Oánh,
ông Nguyễn Văn Hảo, đặc biệt ông ấy thành lập 1 nhóm gọi là nhóm Thứ Sáu để
sinh hoạt và góp ý kiến.”
Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Bửu
Sơn, những năm về sau, những chính sách tích cực về kinh tế của Đặng Tiểu Bình
làm cho Trung Quốc có những thành công rất lớn và tốc độ phát triển kinh tế mạnh
hơn.
Ngược lại, với Việt Nam thời điểm
đó, ông Huỳnh Bửu Sơn chia sẻ:
“Trong khi đó, cái đổi mới của Việt
Nam đến khoảng đầu năm 2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Châu Á làm
cho kinh tế Việt Nam chậm lại trong 1 thời gian, đương nhiên nó làm cho nền
kinh tế của mình không phát triển như trước.
Như vậy, trong mối quan hệ giữa 2
nền kinh tế thì 1 chuyện xảy ra đó là
mình mua hàng của Trung Quốc nhiều hơn, dẫn đến chuyện nhập siêu của mình càng
lớn và quan hệ ngoại thương giữa mình và Trung Quốc càng lớn.”
Hiện tại
Mặc dù nhấn mạnh rằng nhập siêu
không gọi là một “lệ thuộc”, nhưng theo ông Huỳnh Bửu Sơn, do vị trí địa lý của
2 quốc gia, và giá mua nguyên vật liệu từ Trung Quốc luôn rẻ hơn từ các nước
khác.
“Nhất là khu vực kinh tế quốc doanh của Việt
Nam lại có nhu cầu về nguyên liệu vật tư rất mạnh từ Trung Quốc.”
Một ví dụ về ngành dệt may, theo
Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2017, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng nguyên phụ
liệu dệt may từ Trung Quốc về Việt Nam đạt gần 9 tỷ USD (khoảng 204.800 tỷ đồng),
chiếm hơn 42,7% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này.
Ở một lĩnh vực khác, Trung Quốc
là nhà đầu tư nhiều dự án nhiệt điện tại Việt Nam, than mua từ thị trường này
cũng đang có giá cao nhất so với các thị trường khác. Theo thống kê của Tổng cục
Hải quan cho biết từ đầu năm đến hết tháng 8, cả nước nhập khẩu gần 9,374 triệu
tấn than, tổng giá trị kim ngạch đạt gần 934 triệu USD.
Sự phụ thuộc của Việt Nam vào nền
kinh tế Trung Quốc như ông Huỳnh Bửu Sơn đã phân tích ngày càng thể hiện rõ.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan là người đưa ra quan điểm đồng thuận. Bà cho biết
nền kinh tế Việt Nam hiện đang phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc về nguồn cung
cũng như xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam. Đây cũng chính là nguyên nhân cho
nỗi lo khi dự thảo Luật Đặc khu ra đời
“Mối nguy của việc 3 đặc khu có
thể biến thành các lãnh thổ của Trung Quốc ở Việt Nam là rất lớn. Chính vì vậy
ngay những người dân bình thường ở Việt Nam cũng bày tỏ lo lắng.”
Vào tháng 9-2017, ông Lưu Vân
Sơn, ủy viên Thường vụ Bộ chính trị Trung Quốc, trong chuyến kinh lý Hà Nội có
lời miêu tả mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là “Hai nước có cùng số phận”.
Ngầm ý của câu nói này ra sao, có
lẽ đã thể hiện rõ trong những chuyển biến ở Việt Nam, từ kinh tế, chính trị,
cho đến du lịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét