Nguyễn Vũ Bình
Chúng ta cần minh định lại một lần nữa, việc
xây dựng thể chế dân chủ, về cơ bản vẫn dựa vào cách thức xây dựng thể chế dân
chủ hiện nay trên thế giới. Chỉ có một khác biệt, đó là bổ sung định chế cốt
lõi, và các định chế hỗ trợ định chế cốt lõi có thể vận hành trôi chảy, hiệu quả.
Đồng thời có sự điều chỉnh về cách thức (thời gian và các bước tiến hành) xây dựng
so với trước đây. Trong phần xây dựng các định chế, chúng tôi chỉ trình bày sơ
lược bản chất, ý nghĩa và những đặc thù của các định chế.
I/ Xây dựng các Định chế
1 / Hiến pháp dân chủ
Hiến pháp dân chủ là một văn kiện quy định
một hệ thống những nguyên tắc chính trị căn bản để kiến thiết và xây dựng chính
quyền cũng như dẫn dắt cuộc sống và tiến hóa của một cộng đồng quốc gia.
Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của một
nhà nước, nó thể hiện ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân.
Yêu cầu cơ bản nhất của một hiến pháp dân
chủ. Yêu cầu cơ bản nhất của một hiến pháp dân chủ là xác quyết các quyền con
người (quyền cơ bản và quyền công dân), đồng thời xác quyết cách thức (định chế)
quan trọng nhất để bảo đảm và bảo vệ các quyền con người. Trong thực tế, Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền và các công ước kèm theo chính là văn bản đầy đủ nhất về
quyền con người. Hiến pháp dân chủ có thể sử dụng ngay văn bản có giá trị phổ
quát này. Hiến pháp dân chủ cũng cần xác quyết định chế quan trọng, trực tiếp
nhất bảo đảm các quyền con người của mỗi cá nhân, trong dự án này chính là định
chế Tòa án Nhân quyền.
Xác quyết các định chế quan trọng làm cơ sở
xây dựng thể chế dân chủ. Hiến pháp dân chủ cần xác quyết về các định chế quan
trọng như: Tam quyền phân lập; Đa nguyên đa đảng; Kinh tế thị trường; Nhà nước
liên bang (tản quyền); Bầu cử, ứng cử tự do; Tự do ngôn luận....
Một số yêu cầu quan trọng với hiến pháp dân
chủ
- Hiến pháp dân chủ cần bền vững nhưng
không bất động. Yêu cầu bền vững cực kỳ quan trọng vì hiến pháp là đạo luật cơ
bản, luật chơi cơ bản nhất của xã hội. Nếu thay đổi có thể gây ra xáo trộn
trong sinh hoạt quốc gia và gây đổ vỡ nhiều dự án. Sự bền vững của dự án là điều
không thể thiếu, bởi có bền vững người dân mới yêu tâm đầu tư vào tương lai.
Ngược lại, bền vững không có nghĩa là bất động, hiến pháp phải thích nghi với
thời đại. Không nên tu chỉnh hiến pháp một cách tùy tiện, nhưng cũng không nên
khóa chặt cánh cửa đối với những tu chỉnh cần thiết.
- Hiến pháp dân chủ cần hướng tới sự hội nhập
và toàn cầu hóa trong tương lai. Quá trình toàn cầu hóa đã và đang khởi động,
tuy lúc thăng lúc trầm nhưng đó là xu hướng không thể đảo ngược. Một hiến pháp
hiện đại cần chuẩn bị sẵn các phương án để hội nhập cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội và chính trị với trào lưu chung của nhân loại.
2 / Tam quyền phân lập
Định chế Tam quyền phân lập là định chế cơ
bản để xây dựng nhà nước dân chủ. Định chế này ra đời cùng với sự xuất hiện của
các nhà nước dân chủ. Trước khi chế độ dân chủ xuất hiện, mọi quyền lực nhà nước
đều tập trung vào trong tay một cá nhân hoặc một nhóm người. Việc tập trung tất
cả quyền lực như vậy đã dẫn tới sự độc tài, chuyên chế của nhà nước. Đồng thời,
theo nhiều nghiên cứu, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng và tự
tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm
quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Chính vì vậy, việc phân
chia quyền lực để chống lại sự độc tài, lạm quyền và chuyên chế là giải pháp
quan trọng.
Tam quyền phân lập là định chế phân chia
quyền lực nhà nước theo nguyên tắc kiềm chế và đối trọng để ngăn chặn lạm dụng
quyền lực, độc tài và chuyên chế. Sau khi quyền lực được phân chia, phải làm
cho các nhóm quyền lực đó chỉ được phép hoạt động trong quy định của pháp luật.
Việc phân chia quyền lực của nhà nước thành
ba nhánh, với các chức năng chính, cụ thể như sau:
- Lập pháp: Biểu hiện ý chí chung của quốc
gia. Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân -
quốc hội. Đây là cơ quan ban hành pháp luật
- Hành pháp: Là việc thực hiện luật pháp
đã được thiết lập. Đại diện là các cơ quan thực thi pháp luật
- Tư pháp: Là việc giải quyết xung đột giữa
các cá nhân, trừng trị tội phạm. Các thẩm phán được lựa chọn từ nhân dân và chỉ
xét xử theo pháp luật. Tư pháp có đại diện là các cơ quan trong coi và bảo vệ
pháp luật.
Đối với định chế Tam quyền phân lập, điều
quan trọng cần lưu ý là việc phân chia quyền lực giữa các nhánh cần cân bằng, hợp
lý không để xảy ra sự lấn át quyền lực từ nhánh này với nhánh khác, đồng thời cần
có cơ chế ngăn chặn sự kết hợp có tính chất móc ngoặc, đi đêm giữa các nhánh
quyền lực. Kinh nghiệm của thế giới trong vấn đề này khá đầy đủ, phong phú và
hiệu quả.
3 / Đa nguyên đa đảng
Đa nguyên hiểu theo nghĩa của từ ngữ, đó là
nhiều nguồn gốc, nhiều khởi nguồn. Trong chính trị, đa nguyên được hiểu là sự
đa dạng về ý thức hệ. Ý thức hệ là hệ thống nhận thức giải thích thực tại và định
hướng cho tương lai. Như vậy, đa nguyên có nghĩa là có nhiều cách tiếp cận giải
thích thực tại và định hướng tương lai. Định chế đa nguyên là những quy định để
công nhận, xác nhận xã hội có nhiều xu hướng, con đường nhận thức thực tại
khách quan cũng như nhiều cách thức xây dựng và phát triển xã hội.
Đa đảng là sự thể chế hóa của đa nguyên, tức
là mỗi đảng đại diện cho một ý thức hệ, và các đảng cọ sát để hoàn thiện ý thức
hệ, đồng thời đấu tranh để được cầm quyền, và sử dụng ý thức hệ của đảng mình dẫn
dắt đất nước, điều hành và quản lý bộ máy nhà nước.
Đảng chính trị là một tập hợp người cùng
theo đuổi một ý thức hệ có mục tiêu đấu tranh giành chính quyền (thông qua bầu
cử) để triển khai và áp dụng con đường, cách thức quản lý và điều hành đất nước
của đảng mình. Một chế độ dân chủ là một chế độ chấp nhận và công nhận có nhiều
con đường và cách thức phát triển đất nước cũng như dẫn dắt, quản lý, điều hành
bộ máy nhà nước để có được tiến bộ xã hội. Đảng chính trị khi vận động bầu cử,
muốn thu hút được cử tri phải phản ánh được nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
Chính vì vậy, định chế đa nguyên đa đảng góp phần tích cực vào việc xây dựng một
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngoài ra, đảng chính trị đối lập còn là đối
trọng quyền lực, luôn giám sát và chỉ ra những khiếm khuyết của đảng cầm quyền
để bộ máy của nhà nước ngày càng hoàn thiện và hoạt động hiệu quả hơn.
Khi đảng được xây dựng thành tổ chức và có
bộ máy hoạt động, sẽ có nhiều doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động của đảng. Quá
trình này nếu không có cơ chế và sự giám sát thường xuyên sẽ dẫn tới sự méo mó
trong hoạt động đảng phái. Cần phải có quy định trích kinh phí hoạt động cho
các đảng phái với những điều kiện nhất định.
4/ Bầu cử
Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của
người dân để chọn ra người nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền. Bầu cử là cơ
sở pháp lý cho việc hình thành các cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước.
- Các nguyên tắc bầu cử:
+ Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu: bảo đảm để
mọi công dân không phân biệt sắc tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng
tôn giáo, trình độ văn hóa, thời hạn cư trú, đến tuổi trưởng thành đều được
trao quyền bầu cử.
+ Nguyên tắc bình đẳng: mọi công dân có cơ
hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm phân biệt dưới bất cứ hình thức nào.
Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với một cuộc
bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau, không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã
hội, sắc tộc, tôn giáo...
+ Nguyên tắc bầu cử trực tiếp: công dân trực
tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, công dân trực tiếp bầu ra đại diện của
mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào.
+ Nguyên tắc bỏ phiếu kín: không ai được biết
và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri nhằm bảo đảm tự do đầy đủ sự thể
hiện ý chí của cử tri.
Bầu cử là định chế không chỉ bảo đảm tìm ra
được những người tài đức, có khả năng đảm nhận những chức vụ trong chính quyền
mà còn là hoạt động phản ánh được nguyện vọng của nhân dân về các chương trình
hành động của các đảng phái trong từng giai đoạn.
5/ Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong
đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để
xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Định chế kinh tế thị trường bảo đảm quyền
tư hữ, một quyền tự do cá nhân cơ bản của con người Đây là một quyền quan trọng
của con người. Không có quyền tư hữu, tất cả các quyền khác là bất khả thi. Bởi
vì con người phải tự duy trì đời sống của mình, cho nên người nào không có quyền
đối với sản phẩm do nỗ lực cá nhân mình tạo ra thì sẽ không có cách nào sống được.
Người nào sản xuất mà bị những kẻ khác chiếm đoạt sản phẩm, thì ắt là nô lệ. Dưới
một góc quy chiếu khác, kinh tế thị trường chính là thể chế trong kinh tế, để bảo
đảm tự do cho cá nhân trong việc kinh doanh, trong lĩnh vực kinh tế.
Định chế kinh tế thị trường cần bảo đảm những
vấn đề cơ bản sau đây.
a/ Nguyên lý kinh tế thị trường
Trước hết và trên hết, một nền kinh tế thị
trường muốn vận hành và hoạt động hiệu quả, cần phải tuân thủ các nguyên lý, mà
những nguyên lý này không thể bị vi phạm và can thiệp nếu không muốn có một sự
biến dạng hoàn toàn hoạt động sản xuất kinh doanh của nên kinh tế.
- Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong
các sách về kinh tế thị trường, các tác giả thường ít đề cập tới yếu tố này. Lý
do là, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là điều đương nhiên trong các nước tư
bản, nơi các tác giả viết sách về kinh tế thị trường. Trong nguyên lý này, yếu
tố sở hữu tư nhân về đất đai là yếu tố quan trọng, góp phần xây dựng thể chế
kinh tế thị trường và còn là yếu tố xúc tác quan trọng trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường.
- Thị trường quyết định giá cả tất cả các
loại hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Cung - Cầu sẽ quyết định giá cả các
loại hàng hóa là tiền đề quan trọng cho việc thị trường phân bổ có hiệu quả các
yếu tố của quá trình sản xuất như vốn, lao động, công nghệ…Bất kỳ một sự can
thiệp, tác động nào dẫn tới việc giá cả hàng hóa không được định đoạt bởi tương
quan cung - cầu sẽ làm biến dạng và méo mó toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế.
- Tương quan giữa lượng tiền tệ được phát
hành và lưu thông với lượng hàng hóa được sản xuất ra ở mỗi quốc gia cần được
tuân thủ nghiêm ngặt. Tỷ lệ giữa lượng tiền phát hành cần tương ứng với lượng
hàng hóa mà quốc gia (nền kinh tế) sản xuất được. Nếu mối tương quan này bị phá
vỡ, ví dụ lượng tiền in ra lớn hơn tỷ lệ tương quan với lượng hàng hóa sản xuất
được sẽ dẫn tới lạm phát, làm đảo lộn các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền
kinh tế.
b/ Môi trường thể chế của nền kinh tế thị
trường
Ngoài việc bảo đảm các nguyên lý của nền
kinh tế thị trường, các quốc gia cũng cần xây dựng môi trường thể chế cho hoạt
động của toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng môi trường thể chế bao gồm xây dựng các
bộ luật, các quy tắc ứng xử, cũng như môi trường xã hội xung quanh các hoạt động
kinh tế. Các yếu tố quan trọng nhất của môi trường thể chế cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế thị trường bao gồm:
- Tính trung thực, công khai và minh bạch của
thông tin trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta đều biết rằng, muốn quyết định
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có đầy đủ các thông tin về mọi vấn đề
liên quan tới các mặt hàng, ngành hàng mà họ dự định tham gia kinh doanh. Nếu
không có đầy đủ các thông tin khách quan, trung thực, các doanh nghiệp sẽ không
dám đầu tư. Nếu cứ quyết định kinh doanh trong khi không có đầy đủ các thông
tin trung thực, sự thất bại là không tránh khỏi.
- Tạo lập sân chơi bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào nền kinh tế thị trường.
Bất kể quốc gia nào, muốn nền kinh tế thị trường phát triển và hiệu quả, đều phải
tạo dựng sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành phần tham gia, trong toàn bộ
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Đây cũng chính là một
trong số các chức năng của chính phủ trong nền kinh tế thị trường.
- Xây dựng môi trường lành mạnh cho các hoạt
động chung của xã hội cũng như các hoạt động trong nền kinh tế. Đây chính là việc
xây dựng cơ chế luật pháp và giáo dục để hạn chế và ngăn chặn tham nhũng ở các
quốc gia. Tham nhũng là yếu tố tác động rất tiêu cực vào sự phát triển và hiệu
quả của bất kỳ nền kinh tế nào.
Ngoài các yếu tố trên, việc tạo lập đồng bộ
các thị trường (thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai…), và một
số yếu tố khác góp phần xây dựng nên môi trường thể chế cho một nền kinh tế thị
trường lành mạnh.
c/ Tác động chính sách
Song song với việc bảo đảm các nguyên lý của
kinh tế thị trường, xây dựng môi trường thể chế trong nền kinh tế thị trường,
các Chính phủ còn có các chính sách tác động vào nền kinh tế nhằm làm phẳng bớt
các chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, cũng như thực hiện các mục tiêu cụ thể của
Chính phủ trong các nhiệm kỳ cụ thể. Ví dụ, các chính sách tiền tệ, là việc
tăng hay giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế; chính sách tài chính, là
việc tăng giảm chi tiêu của Chính phủ, tác động tới đầu tư; ngoài ra là các chính
sách trợ giá nông sản, chính sách xuất nhập khẩu…Tuy nhiên, các chính sách của
các chính phủ dân chủ tác động tới nền kinh tế thị trường bao giờ cũng căn cứ
vào: 1- nhu cầu thực tế của thị trường, đồng thời bảo đảm không vi phạm các
nguyên tắc, nguyên lý và quy luật của thị trường; 2- các chính sách phải rõ
ràng, minh bạch, đồng bộ và ổn định.
6/ Tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận là sự tự do phát biểu mà
không bị kiểm duyệt hoặc hạn chế. Tự do ngôn luận cũng đồng nghĩa với tự do biểu
đạt, diễn đạt và tự do thể hiện.
Quyền tự do ngôn luận được thừa nhận như là
một quyền cơ bản của con người trong điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền
và trong những công ước quốc tế khác.
Tự do ngôn luận trong thời hiện đại được hiểu
là một quyền đa diện bao gồm không chỉ quyền biểu đạt hay phát tán thông tin và
tư tưởng, mà còn bao gồm ba khía cạnh sau.
- Quyền tìm kiếm thông tin và tư tưởng
- Quyền tiếp nhận thông tin và tư tưởng
- Quyền chia sẻ thông tin và tư tưởng
Quyền tự do ngôn luận được áp dụng cho mọi
phương tiện truyền thông, dù bằng cách nói, viết, tài liệu in ấn, qua internet
hay các hình thức nghệ thuật. Điều này có nghĩa rằng, việc bảo vệ tự do ngôn luận
như một quyền không chỉ nói đến nội dung mà còn nói đến phương tiện biểu đạt.
7/ Nhà nước liên bang - một hình thức phân cấp quyền lực (tản quyền)
Nhà nước liên bang là một định chế quan trọng,
nó phân chia quyền lực nhà nước theo chiều dọc, và phát huy tối đa tiềm năng của
các vùng, miền có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau trong một
quốc gia. Tuy là một định chế quan trọng của thể chế dân chủ, nhưng nó chưa được
nhìn nhận một cách chuẩn xác và đầy đủ. Định chế này mới chỉ hiện diện ở xấp xỉ
30 quốc gia có thể chế dân chủ. Về cơ bản, nhà nước liên bang có những ưu thế
vượt trội sau đây.
- Thứ nhất, nhà nước liên bang hay tản quyền
là một sự bảo đảm cho dân chủ. Các tiểu bang không thể xuất hiện độc tài vì thẩm
quyền chỉ giới hạn trong các vấn đề kinh tế, văn hóa và xã hội và có sự giám
sát, chế tài của chính quyền trung ương. Ngược lại, chính quyền trung ương cũng
không thể là độc tài vì phần lớn sinh hoạt của người dân nằm trong tay chính
quyền tiểu bang. Nếu chính quyền trung ương không được tín nhiệm sẽ bị nhân dân
thay thế, vì chính quyền trung ương không thể khống chế được dân chúng. Như vậy,
do sự giám sát và chế ước lẫn nhau, các sinh hoạt chính trị sẽ bảo đảm dân chủ.
- Thứ hai, phát huy tốt nhất những tiềm
năng của các vùng miền, cũng như giảm bớt những phiền phức về mặt thủ tục, hành
chính. Trong sinh hoạt kinh tế, việc không phải đưa vấn đề lên cấp trung ương mà
có thể quyết định ngay tại chính quyền vùng, miền sẽ giảm bớt nhiều phí tổn và
thời gian. Đồng thời, chính quyền vùng miền, hay tiểu bang sẽ được phản ánh
ngay lập tức những khó khăn của tiểu bang, và có phương án giải quyết tức thì.
Nếu tập trung ở trung ương, vấn đề của các tiểu bang lớn, đô thị lớn sẽ thu hút
sự chú ý, còn các vùng miền thường bị lãng quên. Tản quyền đóng góp một cách
quyết định vào sự ổn vững của quốc gia. Nó khoanh vùng những vấn đề và tránh
cho quốc gia nhiều khủng hoảng đáng lẽ chỉ xảy ra ở một vùng, đối với chính quyền
vùng. Hơn nữa, nó còn giúp cho quốc gia thực hiện những cải tổ lớn mà không rơi
vào hỗn loạn.
- Thứ ba, tản quyền làm giảm bớt xung đột đảng
phái, bảo đảm cho hòa hợp dân tộc và văn minh trong sinh hoạt chính trị. Một
chính đảng có thể cầm quyền cấp trung ương, nhưng lại là đối lập trong nhiều tiểu
bang. Xung khắc chính quyền với đối lập sẽ giảm bớt sự gay gắt.
Muốn thực hiện thành công định chế nhà nước
liên bang, cần có những điều kiện sau. Một là, mỗi vùng, hay tiểu bang phải có
đủ khả năng tự tồn tại và phát triển được. Có nghĩa là phải có đủ các điều kiện
về dân số, diện tích, tài nguyên hoặc điều kiện địa lý. Hai là, tản quyền không
khuyến khích ý đồ ly khai. Để giải quyết vấn đề lý khai cần giới hạn thẩm quyền
của chính quyền tiểu bang. Đó là các tiểu bang không được có quân đội, luật
pháp tiểu bang không được mâu thuẫn với luật pháp liên bang, không có tiền tệ
riêng, không được tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý có nội dung chính trị, các
vùng, tiểu bang không được ký các hiệp ước với nhau...(tham khảo sách Tổ Quốc
Ăn năn của tác giả Nguyễn Gia Kiểng).
----------------------
Trên đây là một số định chế quan trọng nhất,
không có không được đối với việc xây dựng thể chế dân chủ. Tuy nhiên, như ở phần
đầu đã đề cập, những định chế này mới chỉ bảo đảm cho hệ thống bộ máy nhà nước
hoạt động nhịp nhàng, trôi chảy không thiên lệch và không bị lạm quyền. Vấn đề
quyền con người bị vi phạm, toàn bộ những định chế này vẫn chưa thể khắc phục
và giải quyết được. Cần có một định chế trực tiếp để cá nhân có thể tự bảo vệ
các quyền con người của mình. Chúng tôi xin trình bày định chế Tòa án Nhân quyền
và một số định chế đi kèm, hỗ trợ để định chế cốt lõi (Tòa án Nhân quyền) có thể
hoạt động hiệu quả, thực chất.
II/ Định
chế Tòa án Nhân quyền và các định chế hỗ trợ
1/ Định chế Tòa án Nhân quyền
Tòa án Nhân quyền là cơ quan xét xử những
vi phạm về quyền con người của cá nhân, nhóm người, cơ quan, chính quyền đối với
cá nhân hoặc nhóm người khác. Định chế Tòa án Nhân quyền là định chế bảo đảm
các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân.
Nói cách khác, đó là định chế bảo đảm tự do của con người.
a/ Tại sao cần phải có định chế Tòa án Nhân
quyền?
- Việc bảo đảm và bảo vệ các quyền con người
là vấn đề quan trọng nhất, nhưng chưa có bất kỳ một định chế nào trực tiếp thực
thi việc này. Có một số quyền con người, hoặc quyền dân sự, có được các định chế
để thực thi, ví dụ tự do ngôn luận, tự do báo chí; hoặc sở hữu tư nhân trong
kinh tế thị trường...nhưng về tổng thể, vẫn chưa có một định chế nào bảo đảm và
bảo vệ tất cả các quyền của con người.
- Quá trình xây dựng thể chế dân chủ là quá
trình vô cùng phức tạp và khó khăn, chưa có tiền lệ ở các quốc gia bắt đầu xây
dựng thể chế dân chủ. Trong quá trình đó, chưa hề có luật, chưa khoanh vùng được
các quyền con người trong từng lĩnh vực của thực tế cuộc sống, chính vì vậy, sự
vi phạm các quyền con người là không thể tránh khỏi.
- Kể cả các quốc gia đã có các định chế dân
chủ, thì vấn đề quyền con người trong thực tế cuộc sống cũng vô cùng phức tạp,
luật cũng chưa bao quát hết được, nên khi xảy ra các vấn đề liên quan, người ta
cũng chưa có hệ thống quy chuẩn để điều chỉnh, nên vẫn vi phạm các quyền con
người là đương nhiên (vô tình vi phạm)
- Xu hướng lạm quyền của những người có quyền
lực, cơ quan quyền lực là tất yếu, trong khi không có các quy định cụ thể về
các quyền con người trong từng lĩnh vực, từng khía cạnh thực tế cuộc sống sẽ dẫn
tới việc vi phạm các quyền con người (cố tình vi phạm để trục lợi).
b/ Định chế Tòa án Nhân quyền ra đời sẽ giải
quyết được những vấn đề gì?
+ Trước hết, nó đặt cơ sở pháp lý cho việc
bảo đảm và bảo vệ các quyền con người một cách tổng thể, cụ thể và trực tiếp.
Khi đã có Tòa án Nhân quyền thì đồng nghĩa với việc các quy chuẩn pháp luật về
quyền con người sẽ được xây dựng và đi vào thực tế. Hệ thống quy chuẩn về quyền
con người sẽ trả lời các câu hỏi: quyền con người là gì, hệ thống các quyền con
người trong thực tế ở các lĩnh vực cụ thể là gì? thế nào là vi phạm quyền con
người? Khi bị vi phạm quyền con người thì tới đâu, gặp ai để giải quyết...
+ Làm cơ sở cho việc giải quyết, cho hoạt động
của tất cả các định chế khác. Khi xây dựng thể chế dân chủ, hoặc khi đã có các
định chế dân chủ khác nhưng việc thực thi sẽ rất khó khăn vì các định chế không
thể bao hàm hết được những phát sinh từ thực tế cuộc sống. Vì vậy, khi giải quyết
vấn đề, nếu không có các quy định, quy chuẩn pháp luật về quyền con người, sẽ rất
dễ dẫn tới vi phạm quyền con người. Khi đã có các quy chuẩn pháp luật về quyền
con người ta có thể thoải mái giải quyết các vấn đề phát sinh mà không sợ vi phạm
quyền con người. Điều này đồng nghĩa với việc, người ta sẽ không thể lạm dụng
quyền để trục lợi sau đó bao biện bằng những điều luật khác.
+ Bản thân việc đặt ra định chế Tòa án Nhân
quyền, và dành sự quan tâm đặc biệt cho định chế này cũng đã là sự cảnh báo, lời
nhắc nhở cho toàn bộ hệ thống chính trị, góp phần vào việc vận hành và bảo vệ tự
do cho con người.
Tóm lại, khi đã có định chế Tòa án Nhân quyền,
và các định chế hỗ trợ để hoạt động thực chất, hiệu quả, chúng ta sẽ bảo đảm được
tự do của con người. Khi con người đã có, đã được tự do, thì mới có cơ sở để thực
hiện tất cả những vấn đề khác, kể cả việc xây dựng thể chế dân chủ. Đồng thời,
tự do là cơ sở cho sự sáng tạo, tạo ra các giá trị mới, thúc đẩy phát triển
toàn xã hội.
c/ Vấn đề tổ chức, vận hành
Tòa án Nhân quyền là định chế hoàn toàn mới,
nhưng lại là định chế quan trọng nhất. Chính vì vậy cần dành cho nó một vị trí
trung tâm, xứng đáng. Không gì hay và chuẩn xác hơn, nên đặt trong hệ thống Tòa
án Hiến pháp. Điều đó có nghĩa là Tòa án Hiến pháp của các quốc gia dân chủ sẽ
không chỉ còn là một tòa án duy nhất nữa, mà có hệ thống chân rết ở các tiểu bang
và các địa phương. Ở cấp độ quốc gia, liên bang, tên gọi vẫn sẽ là Tòa án Hiến
pháp, nhưng ở các tiểu bang và các địa phương sẽ gọi là Tòa án Nhân quyền, chỉ
tập trung xét xử về vấn đề vi phạm nhân quyền. Chức năng của Tòa án Hiến pháp
liên bang vẫn được giữ nguyên, nhưng có thêm lĩnh vực xét xử vi phạm nhân quyền
cấp quốc gia, đồng thời phụ trách ngành dọc về chuyên môn với hệ thống tòa án
nhân quyền cấp tiểu bang và địa phương.
Để xây dựng thành công Tòa án Nhân quyền và
cơ chế thực thi, cần thực hiện những việc sau đây:
- Sự độc lập hoàn toàn và quyền lực tuyệt đối
trên cơ sở hiến pháp và luật pháp của ngành tư pháp nói chung và Tòa án Nhân
quyền nói riêng. Nếu không có sự độc lập, và quyền lực tuyệt đối của Tòa án
Nhân quyền, chúng ta không thể nói tới việc người dân có thể tự bảo vệ các quyền
con người của mình.
- Xây dựng đội ngũ luật sư nhân quyền độc lập
và chuyên nghiệp trong việc hỗ trợ pháp lý và cùng tham gia bảo vệ quyền con
người của công dân.
2/ Trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do
và dân chủ cho nhân dân
Có hai lý do quan trọng để thực hiện việc
trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do và dân chủ cho người dân. Việc đầu
tiên, trong bất cứ lý thuyết nào về dân chủ, cũng đều nói rằng, người dân tham
gia vào xây dựng nên thể chế dân chủ. Nhưng trên thực tế, hình như chưa có quốc
gia nào khi xây dựng thể chế dân chủ, người dân được tham gia một cách đúng
nghĩa. Tức là người dân có đầy đủ nhận thức và hiểu biết, thông tin để lựa chọn
những người xứng đáng đại diện cho mình, hoặc những nguyện vọng của mình được
phản ánh trong các định chế, cũng như đường lối, chính sách của chính quyền.
Chính vì vậy, cần phải trang bị kiến thức để người dân có đầy đủ nhận thức tham
gia vào quá trình xây dựng thể chế dân chủ. Chưa làm được điều này, tất cả chỉ
là hình thức mượn danh nhân dân để thực hiện việc xây dựng thể chế dân chủ.
Lý do thứ hai, quan trọng hơn. Với định chế
Tòa án Nhân quyền chỉ là định chế, cơ chế để người dân tự bảo vệ các quyền con
người của mình mỗi khi bị xâm phạm. Chỉ có tự mình bảo vệ quyền lợi của mình mới
thiết thực và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, người dân phải biết, phải hiểu được
quyền của mình như thế nào, bị vi phạm ra sao, đòi lại quyền của mình ở đâu,
như thế nào. Như vậy, việc trang bị kiến thức cho người dân về nhân quyền, tự
do, dân chủ là việc tối quan trọng, để người dân có đủ nhận thức và hiểu biết để
tự bảo vệ các quyền con người của mình bằng định chế Tòa án Nhân quyền.
Việc trang bị kiến thức dân chủ cho người
dân ban đầu nên thực hiện bằng một cơ quan thống nhất từ trung ương tới địa
phương. Cơ quan này chịu trách nhiệm phổ biến thông tin, các vấn đề quan trọng
của đất nước và hỗ trợ về mặt pháp lý. Cơ quan đó có thể là Trung tâm thông tin
– Nhân quyền và hỗ trợ pháp lý bao gồm các chức năng sau.
- Thông tin tình hình đất nước, các đảng
phái chính trị, tình hình thế giới, khu vực và
địa phương.
- Trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do,
dân chủ cho nhân dân
- Hỗ trợ pháp lý cho người dân trong mọi vấn
đề, trọng tâm là bảo vệ các quyền con người của nhân dân
Cơ quan này có trách nhiệm thông tin, trang
bị kiến thức đến từng người dân ở tất cả các thôn, bản, làng trên toàn quốc,
không bỏ sót bất cứ một cá nhân nào.
Sau khi thể chế dân chủ được xây dựng và đi
vào vận hành, vấn đề trang bị kiến thức cho người dân về dân chủ sẽ được chuyển
sang ngành giáo dục, các trường học. Các cấp học, từ tiểu học, trung học và đại
học, đều phải giảng dạy và phổ biến các kiến thức về nhân quyền, tự do và dân
chủ và cách thức xây dựng thể chế dân chủ. Làm sao để người dân hiểu và thuộc
các quyền con người của mình như thuộc bảng cửu chương trong toán học!
Chúng ta phải thực hiện công việc này như một
định chế, bởi vì chỉ có như vậy, việc thực hiện có cơ quan phụ trách, có đầu
tư, có người chịu trách nhiệm, có giám sát thì mới hi vọng có hiệu quả. Vấn đề
quan trọng này, nếu không thực hiện nghiêm túc như một định chế, sẽ chỉ là hình
thức và ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của nhân dân, tức là ảnh hưởng tới khả
năng tự bảo vệ các quyền con người của nhân dân, cũng có nghĩa ảnh hưởng tới tự
do của nhân dân.
3/ Quy định miễn phí đối với người đi kiện
vi phạm nhân quyền
Những người bị vi phạm nhân quyền, thực hiện
quyền tự bảo vệ các quyền con người của mình, tức là người đứng đơn kiện người,
nhóm người hoặc cơ quan, tổ chức vi phạm nhân quyền sẽ được miễn phí hoàn toàn.
Thông thường, những người bị vi phạm các quyền con người là những người dân thường,
nghèo khổ, thấp cổ bé họng. Những người này không có tiền để thanh toán cho các
vụ kiện nếu không được hỗ trợ. Cách hỗ trợ hiệu quả và công bằng nhất đó là miễn
phí hoàn toàn cho những người bị vi phạm nhân quyền, đứng đơn kiện những kẻ vi
phạm. Không chỉ miễn phí tòa, người đi kiện còn được chỉ định luật sư miễn phí ở
trung tâm Thông tin - Nhân quyền và hỗ trợ pháp lý. Trung tâm này luôn có đội
ngũ luật sư nhân quyền, để tham gia tố tụng hỗ trợ các nạn nhân bị vi phạm nhân
quyền. Những kẻ vi phạm nhân quyền, sau khi bị kết án, sẽ phải trả phí tòa tùy
theo quy định.
Đây là một định chế quan trọng, không thể
thiếu được nếu muốn thực hiện thành công định chế Tòa án Nhân quyền. Chỉ có hỗ
trợ về pháp lý và tài chính, người dân mới có thể tự bảo vệ các quyền con người
của mình. Tất cả các nguồn kinh phí này, đều được lấy ra từ ngân sách quốc gia,
cũng tức là tiền thuế của người dân, để người dân bảo vệ các quyền con người, tự
do của họ.
III/ Các bước thực hiện - một số vấn đề cần
lưu ý
Trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ,
đã và đang diễn ra trên thế giới, ngoài việc nội dung xây dựng thể chế dân chủ
chưa có định chế cốt lõi thì việc tiến hành, các bước đi cũng có những khiếm
khuyết không nhỏ. Đó là việc xác định thời gian chuẩn bị cho việc bắt tay xây dựng
thể chế dân chủ quá ngắn, thông thương từ 6 tháng đến một năm. Trong thời gian
đó, các quốc gia thường thuê các chuyên gia, có thể kết hợp với các học giả
trong nước viết hiến pháp, đồng thời ấn định thời gian cho tổng tuyển cử. Sau
đó, tất cả thể chế dân chủ đều được bắt tay xây dựng khi đã có các cơ quan lập
pháp và hành pháp là quốc hội và chính phủ. Cách thức này, quá trình này, chúng
ta chỉ có thể gọi là chuẩn bị cho tổng tuyển cử chứ hoàn toàn không phải là quá
trình chuẩn bị xây dựng thể chế dân chủ.
Khi chúng ta đặt vấn đề, chuẩn bị cho việc
xây dựng thể chế dân chủ thì điều đó hoàn toàn khác với việc chuẩn bị cho ra đời
bản hiến pháp và việc tổng tuyển cử để tạo ra quốc hội và chính phủ. Toàn bộ
quá trình xây dựng thể chế dân chủ trên thế giới đều bỏ qua một vấn đề quan trọng
nhất, đó là thông tin tới từng người dân về các quyền con người, về tự do, dân
chủ, về tình hình các đảng phái và tình hình đất nước...dẫn tới việc người dân
không có đủ thông tin, không có kiến thức để tham gia vào tiến trình xây dựng
thể chế dân chủ và vận hành, thực thi, thực hiện các quyền con người của mình.
Như vậy, trong việc tiến hành chuẩn bị xây
dựng thể chế dân chủ, chúng ta cần thời gian tối thiểu là từ 2-3 năm để thực hiện
những công việc quan trọng sau đây.
- Thứ nhất, định hình các đảng phái và lực
lượng chính trị. Đây là việc quan trọng và cần có thời gian để thực hiện. Việc
đăng ký của các đảng phái và việc phổ biến, quảng bá, xây dựng mối liên hệ giữa
các đảng phái và người dân cần có thời gian nhất định.
- Thứ hai, thông tin đến người dân về tình
hình đất nước, về các tổ chức chính trị, đảng phái đồng thời trang bị kiến thức
cho người dân về quyền con người, về tự do, dân chủ (dưới dạng sơ lược nhất).
Đây là nhiệm vụ quan trọng, không có không được để người dân thực sự tham gia
xây dựng thể chế dân chủ, cũng như làm cơ sở để tự bảo vệ các quyền con người của
họ sau này.
- Thứ ba, cần lưu ý đặc biệt vào việc xây dựng
thể chế dân chủ cơ sở, là đơn vị hành chính mà người dân trực tiếp tham gia.
Đây là điều khác biệt với phần lớn cách thức xây dựng thể chế dân chủ hiện nay
trên thế giới. Trọng tâm của thể chế dân chủ cần phải đặt ở đơn vị cơ sở, là
nơi người dân có thể tham gia trực tiếp nên việc xây dựng các điều luật bảo đảm
các quyền con người trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của họ. Một khuynh hướng
quan trọng của thế giới là toàn cầu hóa đã giúp giảm bớt các gánh nặng vai trò
quốc gia, cũng có nghĩa là giảm bớt sự tập trung quyền lực và nguồn lực của
trung ương trong xây dựng thể chế dân chủ. Như vậy, thời điểm để xây dựng thể
chế dân chủ tập trung trên bình diện cơ sở là rất thuận lợi đối với các quốc
gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét