Ông Phạm Minh Hoàng.
Theo anh Phạm Minh Hoàng tường
thuật, ông Tổng Lãnh sự Pháp tại Sài Gòn gọi anh đến gặp và thông báo rằng vào
ngày 17/5/2017 Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký quyết định tước quốc tịch Việt
Nam của công dân Phạm Minh Hoàng.
Sự việc
Khi anh Hoàng yêu cầu xem bản quyết
định đó, ông Tổng Lãnh sự Pháp cho biết cơ quan công an của Việt Nam chỉ thông
báo miệng, nên chính ông cũng chưa nhìn thấy bản quyết định đó, dù chi tiết về
người ký và ngày ký quyết định đã được phía Việt Nam xác nhận.
Sau khi nhận tin như trên, anh Phạm
Minh Hoàng đã tuyên bố từ bỏ quốc tịch Pháp. Tuy nhiên, thủ tục pháp lý từ bỏ
quốc tịch Pháp của anh chưa được khởi động theo luật hiện hành của nước Cộng
hòa Pháp.
Quy định hiện hành về quốc tịch
Việt Nam
Quốc tịch là một vấn đề pháp lý
được quy định chủ yếu tại Hiến pháp năm 2013 (Hiến pháp) và Luật quốc tịch số
24/2008/QH12 ngày 13/11/2008 (Luật quốc tịch).
Hiến pháp quy định tại Khoản 1 của
Điều 17 như sau: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam.”
Tương tự, Luật quốc tịch quy định
tại Khoản 1 của Điều 5 như sau: “Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt
Nam.”
Ngoài ra, Điều 4 của Luật quốc tịch
còn khẳng định một nguyên tắc quốc tịch quan trọng: “Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt
Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”
Quy định hiện hành về tước quốc tịch
Theo quy định tại Điều 31 của Luật
quốc tịch, hai nhóm chủ thể sau đây có thể bị tước quốc tịch:
“1. Công dân Việt Nam cư trú ở nước
ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm
trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Người đã nhập quốc tịch Việt
Nam theo quy định tại Điều 19 của Luật này dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ
Việt Nam cũng có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi quy định tại
khoản 1 Điều này.”
Phân tích pháp lý
Giả định rằng quyết định tước quốc
tịch Việt Nam của công dân Phạm Minh Hoàng đã được Chủ tịch nước Trần Đại Quang
ký ban hành vào ngày 17/5/2017 như thông báo của ông Tổng Lãnh sự Pháp. Tuy
chưa ai trực tiếp nhìn thấy bản quyết định đó, một điều chắc chắn rằng mọi quyết
định tước quốc tịch Việt Nam đều phải dựa vào các căn cứ pháp lý quy định tại
Điều 31 của Luật quốc tịch.
Do đó, vấn đề pháp lý chính trong
trường hợp anh Phạm Minh Hoàng là anh thuộc diện nào trong hai nhóm chủ thể có
thể bị tước quốc tịch nêu trên. Hãy phân tích từng nhóm chủ thể đó để xác định
sinh mệnh pháp lý của anh Hoàng ra sao.
Thứ nhất, nhóm chủ thể theo Khoản
1 của Điều 31
Đây là nhóm các “công dân Việt
Nam cư trú ở nước ngoài”. Như vậy, nhóm này có hai yếu tố nhận diện bắt buộc:
(1) [là] công dân Việt Nam; và (2) [phải] “cư trú ở nước ngoài”.
Công dân Việt Nam được xác định
là người có quốc tịch Việt Nam, như Điều 17 Hiến pháp và Điều 5 Luật quốc tịch
quy định. Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 3 của Luật quốc tịch giải thích cụ thể như
sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt
Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.” Như vậy, yếu tố cư trú “lâu dài” ở
nước ngoài rất quan trọng.
Anh Phạm Minh Hoàng là công dân
Việt Nam, từng có thời gian sinh sống và làm việc lâu dài ở Pháp. Tuy nhiên, từ
10 năm nay, anh đã hồi hương theo luật định và được nhà nước Việt Nam chấp thuận
cho giữ quốc tịch Việt Nam, cấp giấy Chứng minh Nhân dân dành cho người cư trú
tại Việt Nam và, quan trọng nhất, cho anh nhập hộ khẩu thường trú tại nhà riêng
anh ở quận 10, TPHCM.
Nói cách khác, anh Phạm Minh
Hoàng là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, chứ không thuộc nhóm chủ thể
“công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài”. Một khi đã xác định anh Hoàng không
thuộc nhóm chủ thể này về hình thức, thì không cần xét tiếp đến việc anh “có
hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” hay không.
Thứ hai, nhóm chủ thể theo Khoản
2 của Điều 31
Đây là nhóm “người đã nhập quốc tịch
Việt Nam theo quy định tại Điều 19 của Luật [quốc tịch] này dù cư trú ở trong
hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam.”
Khoản 1, Điều 19 của Luật quốc tịch
quy định như sau: “Công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú
ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt
Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây […].”
Như vậy, người xin nhập quốc tịch
Việt Nam chỉ có thể là công dân nước ngoài và người không quốc tịch. Sinh ra đã
là người Việt Nam, vẫn giữ quốc tịch Việt Nam (dù có thêm quốc tịch nước
ngoài), chưa từ bỏ quốc tịch Việt Nam, thì không cần phải xin nhập tịch Việt
Nam. Trên thực tế, anh Phạm Minh Hoàng chưa từng xin nhập tịch Việt Nam theo Điều
19 của Luật quốc tịch, trái lại anh chỉ xin hồi hương và được nhà nước Việt Nam
chính thức xác nhận rằng anh vẫn giữ (chứ không phải được nhập) quốc tịch Việt
Nam.
Nói cách khác, anh Phạm Minh
Hoàng đang là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, chứ không thuộc nhóm
chủ thể “người đã nhập quốc tịch Việt Nam.” Cũng như trên, một khi đã xác định
anh Hoàng không thuộc nhóm chủ thể này về hình thức, thì không cần xét tiếp đến
việc anh “có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” hay không.
Nhà nước Việt Nam có thể trục xuất
công dân Việt Nam khỏi lãnh thổ Việt Nam?
Hiến pháp quy định tại Khoản 2 của
Điều 17 như sau: “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước
khác.”
Như vậy, bất kể việc công dân Việt
Nam (dù đang thường trú tại Việt Nam hay định cư ở nước ngoài) đã hoặc đang “có
hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, nhà nước Việt Nam hoàn toàn không có quyền trục xuất công dân
mình sang nước khác, hoặc không cho họ nhập cảnh vào lãnh thổ Việt Nam.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật, nếu
có, của công dân phải được xử lý theo quy định luật pháp có liên quan, chứ
không bằng giải pháp trục xuất. Cần lưu ý rằng, kể cả trong trường hợp tước quốc
tịch đúng luật theo Điều 31 của Luật quốc tịch, thì hệ quả pháp lý đương nhiên
theo đó cũng không phải là trục xuất đương sự khỏi Việt Nam.
Có cần thiết từ bỏ quốc tịch Pháp
để giữ quốc tịch Việt Nam hay không?
Như đã nêu trên, Điều 4 của Luật
quốc tịch khẳng định một nguyên tắc quốc tịch quan trọng: “Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch
Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”
Như vậy, bất kể công dân Việt Nam
có bao nhiêu quốc tịch nước ngoài, nhà nước Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt
Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam mà thôi. Chính vì nguyên tắc này nên
nhà nước Việt Nam không có quyền gán cho công dân Việt Nam đang thường trú tại
Việt Nam hành vi xâm phạm an ninh quốc gia để rồi đương nhiên tước quốc tịch và
trục xuất họ sang nước khác.
Do đó, việc anh Phạm Minh Hoàng
tuyên bố từ bỏ quốc tịch Pháp nhằm đặt nhà nước Việt Nam vào tình huống pháp lý
không thể tước quốc tịch Việt Nam của anh có thể khẳng định là không cần thiết,
bởi lẽ dù công dân Việt Nam có hai quốc tịch trở lên, đối với nhà nước Việt Nam
người ấy vẫn chỉ có một quốc tịch duy nhất, đó là quốc tịch Việt Nam.
Anh Phạm Minh Hoàng không thuộc
hai nhóm chủ thể có thể bị tước quốc tịch Việt Nam như quy định tại Điều 31 của
Luật quốc tịch, thì dù anh muốn tiếp tục duy trì quốc tịch Pháp hay nhận thêm
nhiều quốc tịch khác nữa, nhà nước Việt Nam cũng không có quyền tước quốc tịch
Việt Nam của anh trong mọi trường hợp, trừ phi họ hành động bất chấp luật pháp.
Kết luận
Vì thông tin về quyết định tước
quốc tịch Việt Nam của công dân Phạm Minh Hoàng do Chủ tịch nước Trần Đại Quang
ký ban hành vào ngày 17/5/2017 vẫn chỉ là giả định do chưa ai nhìn thấy, nên từ
những phân tích pháp lý trên đây, tôi hoàn toàn không nghĩ rằng thông tin đó là
xác thực.
Trong tư cách là Chủ tịch nước
kiêm Trưởng Ban cải cách tư pháp trung ương, ông Trần Đại Quang chắc chắn không
thể hành động sơ suất như thế khi ban hành một quyết định vi phạm các nguyên tắc
cơ bản của Hiến pháp và luật pháp về quốc tịch.
Nếu quả thật ông đã lỡ ký ban
hành quyết định vi hiến và vi luật đó, thì trong lúc chưa ai kịp thấy mặt mũi của
nó, ông nên lặng lẽ hủy ngay và cho thi hành kỷ luật đối với kẻ đã tư vấn hoặc
yêu cầu ông làm như vậy.
Quốc tịch là một vấn đề hệ trọng
vì nó thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân. Vi phạm các
nguyên tắc pháp lý cơ bản về quốc tịch và xâm phạm quyền công dân hợp pháp của
người mang quốc tịch Việt Nam có thể khiến Chủ tịch nước Trần Đại Quang đánh mất
uy tín chính trị và hình ảnh của một nhà cai trị công minh, mà ông đang gầy dựng
và đã đạt nhiều ưu thế vượt trội so với các đối thủ của mình.
Tước quốc tịch Việt Nam và trục
xuất Phạm Minh Hoàng khỏi Việt Nam sẽ tạo nên một tiền lệ pháp lý nguy hiểm, đó
là 91 triệu công dân Việt Nam đều cùng ở trong tình huống có thể bị tước quốc tịch
Việt Nam và trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam bất cứ lúc nào. Tiền lệ này tuy bất
khả thi, nhưng chắc chắn sẽ gây thêm nhiều bất ổn xã hội, vì tính tùy tiện
trong việc áp dụng luật và thiếu thượng tôn pháp luật trong hoạt động cai trị của
nhà cầm quyền.
Lê
Công Định, luật sư, từng làm việc cho các cơ quan công quyền Việt Nam từ 1990 –
1994. Ông thành lập văn phòng luật DC Law năm 2005, mau chóng trở thành một
trong những văn phòng luật hàng đầu của Việt Nam, đặc biệt trong lãnh vực
thương mại quốc tế. Ông bị chính quyền Việt Nam bắt năm 2009 với cáo buộc “hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Ông được trả tự do năm 2013, chịu thêm
3 năm quản thúc tại gia. Ông được tổ chức Amnesty International chọn là Tù Nhân
Lương Tâm năm 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét