Văn Cường (gt)
Việt Nam và Nhật Bản đều có nhiều
điểm tương đồng về lợi ích, đây sẽ là những động lực, nền tảng để hai quốc gia
tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Mối quan hệ
này không chỉ mang lại lợi ích cho Nhật Bản và Việt Nam, mà nó còn có những tác
động tích cực cho mạng lưới quan hệ song phương và đa phương trong khu vực.
Tóm tắt
- Mối quan hệ Việt Nam-Nhật Bản từ
lâu đã được định hướng bởi các lợi ích kinh tế, nhưng sự hợp tác chiến lược gần
đây đã nổi lên như một trụ cột quan trọng nữa của mối quan hệ này.
- Sự hỗ trợ của Nhật Bản cho việc
xây dựng năng lực biển của Việt Nam đã trở thành một ưu tiên đối với hai nước,
phản ánh những mối quan ngại được chia sẻ của họ về những sự thay đổi gây xáo
trộn trong bối cảnh về những vấn đề trên biển của khu vực.
- Mong muốn của Việt Nam củng cố
sự can dự quốc phòng của nước này với Nhật Bản chủ yếu nhằm mục đích tạo thế đối
trọng sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này ăn khớp với kế hoạch
của Chính quyền Abe “bình thường hóa” tư thế phòng thủ của Nhật Bản và giảm sự phụ
thuộc về an ninh của Tokyo vào Mỹ bằng cách tăng cường các mối quan hệ phòng thủ
với các nước khu vực.
- Sự hợp tác chiến lược song
phương có thể góp phần tạo ra “một mạng lưới an ninh có nguyên tắc” bù đắp cho
khả năng giảm những cam kết quân sự của Mỹ dành cho khu vực này.
- Những thách thức đối với hợp
tác chiến lược song phương bao gồm chính sách không liên kết của Việt Nam và những
hạn chế trong hiến pháp của Nhật Bản, nhưng những thay đổi dần dần trong tư duy
chiến lược của Việt Nam do những áp lực của Trung Quốc và triển vọng Thủ tướng
Sinzo Abe vẫn cầm quyền cho tới năm 2021 có nghĩa là quỹ đạo chiến lược song
phương hiện nay sẽ có thể được duy trì trong những năm tới.
Giới thiệu
Chuyến thăm của Nhật hoàng Akihio
và Hoàng hậu Michiko đến Việt Nam từ ngày 28/2 đến ngày 5/3/2017 là một bước
ngoặt lịch sử trong mối quan hệ song phương do nó là chuyến thăm đầu tiên của một
vị Nhật hoàng đến nước này. Đáng chú ý hơn, chuyến thăm diễn ra chỉ 6 tuần sau
chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản Sinzo Abe đến Hà nội vào tháng 1/2017. Trong
khi chuyến thăm của ông Abe tập trung vào thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế,
chính trị và chiến lược song phương, chuyến thăm của Nhật hoàng Akihito giúp
thúc đẩy “sức mạnh mềm” của Nhật Bản ở Việt Nam và góp phần củng cố những sự kết
nối xã hội và văn hóa giữa người dân hai nước. Hai bên đã tán dương những kết
quả tích cực của các chuyến thăm, với việc các quan chức Việt Nam ca ngợi mối
quan hệ này là “mạnh mẽ hơn bao giờ hết”.
Bài viết này đánh giá những phát
triển hiện nay trong mối quan hệ Việt Nam-Nhật Bản, tập trung vào tầm quan trọng
chiến lược của nó. Trước tiên, bài viết sẽ mang lại một cái nhìn tổng quan về mối
quan hệ này, sau đó là một phân tích về sự tập trung ngày càng tăng của hai nước
vào sự hợp tác chiến lược trong những năm gần đây. Cuối cùng, bài viết sẽ tìm
hiểu những động lực ẩn chứa bên dưới xu hướng này và những tác động khu vực của
nó.
Các mối quan hệ mạnh mẽ dựa trên
những nền tảng mạnh mẽ
Những tương tác giữa Việt Nam và
Nhật Bản có từ thế kỷ thứ 8, khi Phật Triết (tiếng Nhật Bản là Buttetsu), một
nhà sư người Chăm từ nơi hiện nay là miền Trung Việt Nam đến Nhật Bản vào năm
736. Phật Triết đã giúp truyền bá âm nhạc và điệu nhảy Chăm, tiếng Nhật gọi là
Rinyugaki, mà cuối cùng đã trở thành một phần trong âm nhạc và các điệu nhảy
trong cung đình Nhật Bản (gagaku). Thương mại song phương cũng phát triển mạnh
giữa hai nước trong thế kỷ 16 và 17, khi các thương nhân Nhật Bản thành lập “thị
trấn Nhật Bản” ở Hội An để tạo thuận lợi cho những trao đổi trong tương lai. Chẳng
hạn, trong đầu thế kỷ 17, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất cho
Đàng Trong (miền Nam Việt Nam), và phải tới khi Tokugawa Shogunate áp đặt những
hạn chế đối với những trao đổi nước ngoài vào những năm 1630 thì Trung Quốc mới
bắt đầu thay thế Nhật Bản trở thành đối tác thương mại hàng đầu của miền Nam Việt
Nam.
Vào đầu thế kỷ 20, Việt Nam đã bị
Pháp chiếm làm thuộc địa, trong khi Nhật Bản đã chuyển mình thành công thành một
cường quốc không phải phương Tây thông qua thời kỳ Minh trị phục hưng. Do đó,
Nhật Bản đã trở thành một nguồn cảm hứng cho những người yêu nước Việt Nam một
thời gian ngắn, nhiều người trong số họ đã đến đó để học hỏi về hiện đại hóa đất
nước và giành lại độc lập quốc gia. Tuy nhiên, trong Chiến tranh thế giới thứ
hai, Nhật Bản đã chiếm đóng Việt Nam một thời gian ngắn, và 2 triệu người Việt
Nam đã chết đói do hậu quả của việc Nhật Bản tái tổ chức sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam để hỗ trợ cho những nỗ lực chiến tranh của nước này. Giai đoạn bi thảm
này dường như không đè nặng lên mối quan hệ song phương sau này, mà chính thức
được thiết lập vào năm 1973.
Từ cuối những năm 1970 đến 1992,
các mối quan hệ bị kiềm chế bởi sự phản đối của Nhật Bản khi Việt Nam đưa quân
vào cuộc xung đột ở Campuchia. Tuy nhiên, sau khi Hiệp định hòa bình Paris 1991
về Campuchia được ký kết, các mối quan hệ song phương đã phát triển mạnh, đặc
biệt trong thập kỷ trước. Trong năm 2006, hai nước đã tuyên bố rằng họ đang làm
việc hướng tới “Quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng ở châu
Á”. Vào tháng 4/2009, trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nông Đức Mạnh đến Nhật Bản, hai nước đã chính thức thiết lập “quan hệ đối tác
chiến lược” song phương, mà được bổ sung bởi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật
Bản đã có hiệu lực 6 tháng sau đó. Trong năm 2014, hai phía đã nâng tầm quan hệ
lên mức “Đối tác chiến lược toàn diện”.
Việc củng cố các mối quan hệ song
phương đã không giới hạn ở các tuyên bố chung và các tên khác nhau mà họ gán
cho mối quan hệ này. Các mối quan hệ song phương đặc biệt phát triển mạnh trong
3 lĩnh vực kinh tế then chốt: việc Nhật Bản cung cấp viện trợ phát triển chính
thức (ODA) cho Việt Nam, đầu tư và thương mại.
Đặc biệt, cho tới tháng 9/2016,
Nhật Bản đã cung cấp xấp xỉ 2.800 tỷ yên ODA cho Việt Nam. Số tiền như vậy đóng
một vai trò quan trọng trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực cũng
như việc áp dụng nhiều cải cách xã hội-kinh tế của Việt Nam. Đến lượt mình, các
dự án lớn của Việt Nam được ODA của Nhật Bản cấp vốn đã thúc đẩy xuất khẩu của
Nhật Bản sang Việt Nam và mang lại các cơ hội kinh doanh cho các nhà thầu Nhật
Bản. Vào cuối năm 2016, các công ty Nhật Bản đã đầu tư vào 3.320 dự án ở Việt
Nam với tổng vốn đăng ký 42,5 tỷ USD, bằng 14,6% tổng vốn tích lũy FDI đã đăng
ký ở Việt Nam. Việc này làm cho Nhật Bản trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ
hai ở Việt Nam sau Hàn Quốc. Về thương mại, trong năm 2016, hàng Việt Nam xuất
khẩu sang Nhật Bản và hàng Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam lần lượt trị giá
14,68 tỷ USD và 15,04 tỷ USD. Do đó, Nhật Bản hiện nay là đối tác thương mại lớn
thứ tư của Việt Nam, sau Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc. Các mối quan hệ đầu tư và
thương mại song phương sẽ mở rộng thêm nếu Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương vượt qua được những trở ngại hiện nay để đi vào có hiệu lực trong tương
lai.
Các mối quan hệ kinh tế là một trụ
cột then chốt của mối quan hệ của họ đương nhiên phản ánh những lợi ích lâu dài
của cả hai nước. Trong khi Việt Nam coi thị trường, vốn và công nghệ Nhật Bản
là những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển quốc gia của nước này kể từ khi
thực hiện đổi mới, Nhật Bản coi Việt Nam là một cơ hội lớn, do nguồn dân số lớn
và trẻ, sự tiêu dùng hàng hóa đang tăng lên, và nền kinh tế năng động, phát triển
nhanh chóng của nước này. Do đó, sự hợp tác kinh tế từ lâu đã chi phối chương
trình nghị sự song phương.
Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, sự hợp tác chiến lược đã xuất hiện như một trụ cột quan trọng nữa cho mối
quan hệ song phương. Bất chấp quy mô ở mức khiêm tốn hiện nay do những hạn chế
nhất định ở cả hai phía, mô hình hợp tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản rộng hơn
cho thấy xu hướng tiến lên phía trước mà phản ánh những lợi ích chiến lược ngày
càng hội tụ của cả hai nước trong việc phản ứng lại những thay đổi đáng ngại
trong bối cảnh địa chiến lược khu vực.
Những trọng tâm mới trong sự hợp
tác chiến lược
Trước khi Việt Nam và Nhật Bản
thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược trong năm 2009, hợp tác quốc phòng giữa
hai nước giới hạn ở những trao đổi các phái đoàn quân sự và các chuyến thăm của
các tàu hải quân Nhật Bản cập cảng Việt Nam. Tuy nhiên, sau năm 2009, các mối
quan hệ quốc phòng và an ninh đã được củng cố và đa dạng hóa nhanh chóng.
Trong năm 2011, hai nước đã thông
qua một kế hoạch hành động để thực hiện quan hệ đối tác chiến lược của họ, đã dẫn
đến việc mở các văn phòng tùy viên quốc phòng ở cả hai nước, và việc bắt đầu đối
thoại chính sách quốc phòng chính thức. Hai nước cũng đã ký biên bản ghi nhớ
(MOU) dành cho các hoạt động hợp tác quốc phòng phạm vi rộng, bao gồm những
trao đổi cấp bộ trưởng, tham mưu trưởng và người đứng đầu các quân chủng; các
cuộc ghé thăm cảng hải quân; đối thoại chính sách quốc phòng thường niên ở cấp
thứ trưởng quốc phòng; hợp tác trong hàng không quân sự và phòng thủ trên không;
huấn luyện nhân sự; chống khủng bố; cứu nạn trên biển; đào tạo về IT; quân y;
và gìn giữ hòa bình. MOU cũng đặt ra khuôn khổ pháp lý cho hợp tác giữa các lực
lượng bảo vệ bờ biển hai nước, đặc biệt trong các lĩnh vực như tìm kiếm và cứu
nạn, cứu trợ thảm họa và hỗ trợ nhân đạo.
Sau khi ông Shinzo Abe quay trở lại
ghế thủ tướng vào tháng 12/2012, sự hợp tác chiến lược giữa hai nước đã gia
tăng hơn nữa. Vào tháng 1/2013, Abe đã lựa chọn Việt Nam làm điểm đến nước
ngoài đầu tiên của ông, trong chuyến thăm đó, ông đã tán thành quan điểm của Việt
Nam về việc xử lý các tranh chấp Biển Đông bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của
luật pháp quốc tế. Vào tháng 5/2013, Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã tổ chức một buổi
hội thảo về y học dưới biển ở Việt Nam, và cung cấp huấn luyện về y học dưới biển
cho Hải quân Việt Nam tại một căn cứ hải quân của Nhật Bản 4 tháng sau đó. Sự hợp
tác này có thể được thực hiện theo yêu cầu của Việt Nam, do kế hoạch của Hà Nội
đặt mua tàu ngầm lớp Kilo đầu tiên vào đầu năm 2014.
Cũng trong tháng 9/2013, Bộ trưởng
Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera đã có chuyến thăm đến Việt Nam, trong chuyến
đi, ông đã đến thăm các sở chỉ huy thuộc Vùng 4 Hải quân ở cảng Cam Ranh và đã
quan sát công tác chuẩn bị phòng thủ của Việt Nam cho quần đảo Trường Sa. Sự kiện
này là một bằng chứng cho thấy mức độ tin tưởng lẫn nhau cao, và phản ánh mong
muốn của Việt Nam tăng cường sự can dự hải quân với Nhật Bản cũng như mối quan
tâm của Nhật Bản đến tranh chấp Biển Đông. Cũng trong chuyến thăm, ông Onodera
đã có các buổi tham vấn với người đồng nhiệm Việt Nam, Tướng Phùng Quang Thanh,
trong đó hai bên đồng ý mở rộng sự hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực, dò phá
vũ khí chưa phát nổ, hiện đại hóa các cơ quan chấp pháp biển và công nghệ quân
sự.
Quả thật, sự hỗ trợ của Nhật Bản
cho việc hiện đại hóa và xây dựng năng lực của các cơ quan chấp pháp biển của
Việt Nam kể từ đó đã trở thành một ưu tiên trong hợp tác quốc phòng song
phương. Đặc biệt, vào đầu tháng 8/2014, Nhật Bản đã tuyên bố rằng nước này sẽ
cung cấp cho Việt Nam 6 tàu tuần tra để hỗ trợ các hoạt động phòng thủ trên biển
của nước này ở Biển Đông. Tuyên bố này xuất hiện chỉ sau khi kết thúc cuộc khủng
hoảng trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc do Trung Quốc đã đặt giàn khoan dầu
khổng lồ trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam trong hơn 2 tháng.
Trong chuyến thăm của mình đến Việt Nam vào tháng 1/2017, Thủ tướng Abe đã
tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ cung cấp cho Việt Nam thêm 6 tàu tuần tra trị giá 338
triệu USD. Sự trợ giúp của Nhật Bản là một sự tăng thêm đáng giá vào những nỗ lực
của Hà Nội cải thiện khả năng của các cơ quan chấp pháp biển, đặc biệt là lực
lượng bảo vệ bờ biển Việt Nam, và cơ quan giám sát nguồn cá Việt Nam mới thành
lập. Khi Trung Quốc tập trung vào việc sử dụng các tàu thân trắng để kiểm soát
các vùng biển ở Biển Đông, khả năng mạnh hơn của các cơ quan chấp pháp biển của
Việt Nam sẽ làm cho nước này có thể phản ứng một cách hiệu quả hơn.
Theo thông tin thì Nhật Bản cũng
lên kế hoạch bán 2 radar quan sát mặt đất tiên tiến cho Việt Nam. Đơn đặt hàng
này, dự tính được thực hiện vào năm 2018 và do ODA của Nhật Bản tài trợ, sẽ
tăng cường thông tin tình báo trên biển của Việt Nam ở Biển Đông. Đồng thời,
thông tin cũng cho rằng Hà Nội cũng đang cân nhắc mua một máy bay theo dõi chống
tàu ngầm P-3C đã qua sử dụng từ Tokyo. Nếu được mua, máy bay đó sẽ có thể được
dùng trong các nhiệm vụ theo dõi ở Biển Đông.
Việt Nam và Nhật Bản cũng phối hợp
quan điểm của họ tại các diễn đàn đa phương và các tổ chức quốc tế. Trong khi
Nhật Bản ủng hộ ngoại giao tích cực, và vai trò ngày càng tăng của Việt Nam
trong các vấn đề khu vực, Việt Nam ủng hộ vai trò của Nhật Bản là một bên tham
gia quốc tế lớn. Chẳng hạn, Việt Nam ủng hộ sự can dự mạnh mẽ của Nhật Bản
trong ASEAN và khu vực tiểu vùng sông Mekong, cũng như nỗ lực của Tokyo trở
thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Sự hợp tác quốc phòng và an ninh
Việt-Nhật là một phần trong bức tranh chiến lược khu vực rộng lớn hơn, khi nó mở
rộng và sâu sắc hơn, chắc chắn sẽ tác động đáng kể đến bối cảnh địa chính trị
khu vực.
Tầm quan trọng mang tính khu vực
về sự hợp tác chiến lược Việt-Nhật
Hợp tác quốc phòng trên biển song
phương là kết quả tự nhiên của lợi ích an ninh được chia sẻ của hai nước. Sức mạnh
hải quân ngày càng áp đảo của Trung Quốc và những động thái quyết đoán của nước
này trong các tranh chấp trên biển với Việt Nam và Nhật Bản, như việc Trung Quốc
thiết lập Vùng nhận dạng phòng không trên Biển Hoa Đông và việc nước này xây dựng
7 đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, đã đe dọa làm thay đổi hiện trạng khu vực,
điều mà cả hai nước phản đối. Hợp tác chiến lược để đối phó với Bắc Kinh do đó
đã trở thành cần thiết đối với cả hai bên. Đòi hỏi này được phản ánh rõ trong
những cam kết của ông Abe trong chuyến thăm đến Hà Nội vào tháng 1/2017. Đề cập
đến nguồn nước sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam chảy ra Biển Đông và Biển Hoa Đông
mà kết nối với Vịnh Tokyo, ông Abe đã tuyên bố rằng “Không gì có thể cản trở việc
tự do đi lại trên tuyến đường này. Nhật Bản và Việt Nam là hai nước láng giềng
được kết nối bởi vùng đại dương không thuộc quyền sở hữu của nước nào”.
Việt Nam mong muốn tăng cường sự
can dự quốc phòng với Nhật Bản để củng cố quốc phòng và tạo thế đối trọng sự
bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Việc này phần nào giải thích lý do tại
sao việc củng cố các mối quan hệ quốc phòng song phương đã bắt đầu vào khoảng
năm 2011 khi xu hướng Trung Quốc quyết đoán trên biển trở nên rõ ràng. Ý định
này cũng được phản ánh trong yêu cầu Nhật Bản cung cấp các tàu tuần tra của Việt
Nam cũng như những sự trợ giúp khác để củng cố khả năng trên biển của nước này.
Theo quan điểm của Hà Nội, Nhật Bản
có thể là đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam trong tương lai trước
mắt. Quan hệ song phương nhìn chung là không có rắc rối, dựa trên nền tảng kinh
tế vững chắc, sự tin tưởng lẫn nhau mạnh mẽ, và các lợi ích chiến lược hội tụ
cao, đặc biệt là về vấn đề Trung Quốc. Đối với Việt Nam, Nhật Bản quan trọng
hơn nhiều so với bất cứ cường quốc nào khác bởi vì Tokyo không chỉ có khả năng
kinh tế và quân sự, mà nước này còn sẵn sàng giúp củng cố Việt Nam và các nước
Đông Nam Á khác để duy trì cán cân sức mạnh khu vực. Quan trọng hơn, Nhật Bản
là một cường quốc Đông Á, và có quan hệ rắc rối từ lâu với Trung Quốc. Các yếu
tố này biến Nhật Bản trở thành một đối tác an ninh đương nhiên của Việt Nam, và
khiến các cam kết an ninh của Nhật Bản đáng tin hơn nhiều. Mong muốn của Việt
Nam ăn khớp chặt chẽ với những ý định của Nhật Bản dưới chính sách quốc phòng
và an ninh của Chính quyền Abe, đó là tìm cách “bình thường hóa” tư thế quốc
phòng của Nhật Bản và giảm sự dễ bị tổn thương của Tokyo do sự phụ thuộc về an
ninh của nước này vào Mỹ. Động lực này có thể trở nên mạnh mẽ hơn trong những
năm tới do những sự không chắc chắn về chính sách của Mỹ đối với khu vực.
Nguy cơ Chính quyền Trump có thể
giảm sự can dự quân sự của Mỹ ở châu Á đe dọa gỡ bỏ những nguyên lý trật tự khu
vực sau Chiến tranh thế giới thứ hai và làm bất ổn an ninh khu vực. Sự hợp tác
chiến lược trong số các nước khu vực do đó trở thành một sự phòng ngừa chủ yếu
chống lại nguy cơ này. Sự hợp tác như vậy, dù là trong các hình thức song
phương hay đa phương thu nhỏ, có thể góp phần tạo ra một “mạng lưới an ninh có
nguyên tắc”, mà từng được Chính quyền Obama đề xuất. Các mối quan hệ an ninh được
thúc đẩy của Nhật Bản với Việt Nam, và với các nước khác trong khu vực có tư tưởng
giống nhau như Úc, Philippines, Singapore và Ấn Độ, có thể làm tăng khả năng xuất
hiện một mạng lưới như vậy. Như Slaughter và Rapp-Hooper lập luận, “các mạng lưới
mắt lưới có khả năng phục hồi cao bởi vì không có một mắt lưới cá nhân nào là
trọng yếu đối với sự tồn tại của cấu trúc này – cho dù một liên kết đứt gãy, cấu
trúc này vẫn tồn tại”, Việt Nam và Nhật Bản có thể nằm trong số những mắt lưới
đầu tiên của một mạng lưới như vậy nếu các mối quan hệ quốc phòng song phương
tiếp tục được củng cố và thể chế hóa.
Kết luận
Sự hợp tác chiến lược giữa Việt
Nam và Nhật Bản đã tăng cường trong những năm gần đây do nỗ lực phối hợp của
hai nước trong việc phản ứng những thách thức an ninh chung, đặc biệt là trong
lĩnh vực biển. Mặc dù mối quan hệ hợp tác đầy hứa hẹn, hai bên vẫn đối mặt với
những hạn chế nhất định. Trong khi Việt Nam mong muốn duy trì chính sách không
liên kết và bước đi một cách thận trọng trên con đường ở giữa Trung Quốc và các
cường quốc khác, Nhật Bản đối mặt với những hạn chế trong hiến pháp, điều khiến
cho khó có thể hoàn toàn cam kết về các mối quan hệ quân sự có ý nghĩa với các
nước ngoài, bao gồm cả Việt Nam.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, các mối
quan hệ chiến lược song phương vẫn có một triển vọng tích cực. Về phía Việt
Nam, các động thái quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là trong cuộc
khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014 và việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo
ở quần đảo Trường Sa, đã làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam bạo gan hơn và làm
thay đổi tư duy an ninh của họ theo chiều hướng làm sâu sắc thêm các mối quan hệ
quân sự với Nhật Bản và các cường quốc chủ yếu khác.
Trong khi đó, Chính quyền Abe
cũng đang làm việc để sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản nhằm mang lại cho các lực lượng
vũ trang sự linh hoạt lớn hơn trong việc đối phó với các thách thức an ninh cấp
bách. Quyết định của đảng Dân chủ Tự do (LDP) cho phép ông Abe tranh cử nhiệm kỳ
thứ 3 liên tiếp với tư cách là chủ tịch đảng LDP đã mở đường cho ông vẫn giữ được
ghế thủ tướng cho tới năm 2021, điều sẽ tạo thuận lợi cho việc hiện thực hóa
các tầm nhìn chiến lược của ông. Nếu LDP và ông Abe vẫn cầm quyền, quỹ đạo hợp
tác chiến lược hiện nay giữa Nhật Bản và Việt Nam vẫn có thể duy trì. Câu hỏi
khi đó là hai nước này sẽ tiến lên như thế nào từ đó. Ngoài việc thông qua các
sáng kiến hợp tác phòng thủ đáng kể hơn, việc đưa quan hệ hợp tác chiến lược
song phương vào các khuôn khổ đa phương thu nhỏ, như các mối quan hệ giữa Nhật
Bản, Mỹ và Úc, hoặc Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, có thể là một lựa chọn để cả hai bên
cân nhắc.
*
Lê Hồng Hiệp là chuyên viên
nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS)-Viện Nghiên cứu Yusof Ishak.
Bài viết được đăng trên ISEAS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét