Phần 2: Hệ Thống Tình Báo Của Phe Cộng Sản
Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, tại Bắc Việt, cơ
quan tình báo chiến lược là Cục Tình Báo thuộc Bộ Tổng Tham Mưu của
Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam. Cục Tình Báo, hay còn gọi là Cục 2, được
thành lập ngày 10-6-1957 do việc hợp nhất 2 cơ quan là Nha Liên Lạc
(thuộc Phủ Thủ Tướng, Giám Ðốc là ông Trần Hiệu) và Cục Quân Báo
(Bộ Quốc Phòng), và vị Cục Trưởng đầu tiên cũng chính là ông Trần
Hiệu (năm 1958, ông Trần Hiệu được phong quân hàm Ðại Tá).41,42 Về
phía dân sự, sau sự hợp nhất này, Bắc Việt không còn có một cơ quan
trung ương về tình báo nữa. Công tác tình báo dân sự được giao cho Bộ
Công An với mạng lưới nhân viên dày đặc từ trung ương xuống đến tận
các đơn vị cấp nhỏ nhất tại địa phương như Phường, Khóm, Xã, Ấp.
Chính nhờ mạng lưới này, Bắc Việt đã ngăn chận được sự xâm nhập
của các toán điệp viên của VNCH được gửi ra từ Miền Nam.
Cục 2 có đầy đủ các Phòng, Ban chuyên môn phụ trách
tất cả các lãnh vực chuyên môn về tình báo như thu thập tin (bao gồm
cà tình báo nhân sự –HUMINT—và tình báo tín hiệu –SIGINT–, phân tích
và đánh giá tin, truyền và thông báo tin, và cả phản gián.
Cụ thể, Cục 2 gồm có tất cả 6 Khối với trách
nhiệm như sau:
• Khối Hành Chánh: lo về nhân viên, lý lịch, thăng
thưởng, kỷ luật, vv
• Khối Kỹ Thuật: thu thập tất cả các loại tài liệu
của VNCH như giấy căn cước, con dấu, chữ ký để làm căn cước giả,
cũng như cung cấp mọi vật liệu và máy móc cần thiết cho các điệp
viên xâm nhập vào Miền Nam
• Khối Truyền Tin: điều hành các hệ thống truyền tin
giữa Cục 2 với các đơn vị phụ thuộc, với các cơ quan tình báo chiến
lược khác, và với các điệp viên do Cục 2 điều động ở Miền Nam
• Khối Huấn Luyện: phụ trách huấn luyện nhân viên
trong nước cũng như gửi đi học tại Liên Xô và Trung Quốc từ 6 tháng
đến 2 năm
• Khối Bảo Vệ: lo mảng công tác phản gián, theo dõi
các đối tượng tình nghi phản động, và ngăn chận người của VNCH xâm
nhập và phá hoại
• Khối Thu Thập: được tổ chức thành nhiều Ban; mỗi
Ban chịu trách nhiệm thu thập tin tại một quân khu ở Miền Bắc; đặc
biệt 3 Ban quan trọng nhứt chịu trách nhiệm tại 3 vùng Chiến trường C
(VNCH), B (Lào), và C (Kampuchia); có cả 1 Ban chịu trách nhiệm về Hoa
Kỳ
Tại Miền Nam, vì Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam (hay Việt Cộng) chỉ là một công cụ của Bắc Việt, mọi việc quan
trọng về chính trị và quân sự đều do Trung Ương Cục Miền Nam quyết
định. Trung Ương Cục Miền Nam (sau đây sẽ viết tắt là TUC; tài liệu
của Mỹ thường gọi là COSVN = Central Office for South Vietnam) là cơ quan
do Ðảng Lao Ðộng Việt Nam (tức Ðảng Cộng sản Việt Nam tạm thời đổi
tên vào năm 1951) thành lập năm 1961 để thay cho Xứ Ủy Nam Bộ, với
nhiệm vụ tiến hành cuộc nổi dậy tại Miền Nam với các Bí Thư liên
tiếp sau đây: Nguyễn Văn Linh (1961-1964), Nguyễn Chí Thanh (1964-1967),
và Phạm Hùng (1967-1975), tất cả đều là Ủy Viên Bộ Chính Trị của
Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.
Về mặt công tác tình báo, TUC, thật ra, chỉ chịu
trách nhiệm trong phạm vi lãnh thổ của Vùng III và Vùng IV của VNCH
mà thôi (tức là 3 Quân Khu 7, 8, và 9 của Việt Cộng). Công tác tình
báo tại các phần lãnh thổ còn lại của VNCH (tức là Vùng I và Vùng
II) vẫn thuộc sự điều khiển của Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Ðội Nhân Dân
Việt Nam (xuyên qua Cục Tình Báo, tức là Cục 2). Do đó, hệ thống tổ
chức tình báo của phe Cộng sản có sơ đồ tổ chức như sau:
Ghi chú:
• Chiến trường B3 là mật ngữ của phe Cộng sản dùng
để chỉ vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH
• Quân Khu T.Thiên-Huế: gồm các tỉnh Quảng Trị,
ThừaThiên và Thành phố Huế
• Quân Khu 5: gồm các tỉnh duyên hải Trung và Nam Trung
Phần là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hòa
• Quân Khu 6: gồm các tỉnh duyên hải Nam Trung Phần là
Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy và các tỉnh phía Nam Cao Nguyên Trung
Phần là Darlac, Quảng Ðức, Tuyên Ðức và Lâm Ðồng
• Quân Khu 7: gồm các tỉnh Miền Ðông Nam Bộ
• Quân Khu 8: gồm các tỉnh Tiền Giang
• Quân Khu 9: gồm các tỉnh Hậu Giang, Miền Tây Nam Bộ
Với hệ thống tổ chức như trong sơ đồ bên trên, việc
cung cấp tin tức tình báo cho các sư đoàn Bắc Việt đã xâm nhập vào
Miền Nam và hoạt động trong Vùng I và Vùng II Chiến Thuật của VNCH
hoàn toàn do Cục 2 đảm trách.
Trong khu vực trách nhiệm của mình, tức là 2 Vùng
III và Vùng IV của VNCH, TUC có một bộ phận chuyên lo công tác an ninh
và tình báo gọi là Cục An Ninh gồm có 3 bộ phận với các nhiệm vụ
chính như sau: 45
• Ban Nội thám: với bí danh K-35, có nhiệm vụ duy
trì và bảo vệ an ninh cho mật khu; có quyền theo dõi, bắt giam, hỏi
cung, điều tra, giam giữ cán bộ chiến sĩ và thường dân; ngăn chận sự
xâm nhập của các điệp viên của VNCH
• Ban Ngoại thám: có nhiệm vụ thu thập tin tức tình
báo qua hệ thống điệp viên và nội tuyến; cung cấp tất cả những dụng
cụ, vũ khí cần thiết cho các điệp viên và nội tuyến
• Ban Bảo vệ: bảo vệ yếu nhân, lãnh tụ của TUC và
Mặt Trận; đơn vị được chỉ định làm công tác này là Trung Đoàn Bảo
Vệ 180 gồm 2 Tiểu Ðoàn D-1 và D-2; D-1 phụ trách bảo vệ lãnh tụ và
cơ sở; D-2 phụ trách bảo vệ ngoại vi.
Ngoài các tổ chức, cơ quan, đơn vị chính thức như
vừa trình bày bên trên, phe Cộng sản còn có được tai mắt trong dân
chúng qua cái gọi là “hệ thống tình báo nhân dân” ở khắp nơi trong
lãnh thổ của VNCH, điều mà VNCH không làm được tại Miền Bắc.
Hoạt Ðộng Xâm Nhập Của Hai Bên
Ngoài các hoạt động công khai của các cơ quan tình
báo vừa kể trên, cả VNCH và Bắc Việt đều có thực hiện một số điệp
vụ bí mật qua các công tác gửi người, cài người, kể cả trường kỳ
mai phục, vào lãnh thổ, cơ quan, tổ chức của cả hai bên.
VNCH Gửi Kiệt Kích Xâm Nhập Bắc Việt
Trong thời gian 300 ngày chuyển tiếp của việc thi
hành Hiệp Ðịnh Genève 1954, một tổ CIA, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá
Edward Lansdale, đã tuyển mộ (từ các đảng viên của 2 chính đảng có
chủ trương chống Cộng sản là Ðại Việt và Quốc Dân Ðảng), huấn luyện
và gài đặt lại một số tổ tình báo ở Miền Bắc. Kế hoạch “trường
kỳ mai phục” này của CIA tương đối thành công vì lúc đó Bắc Việt
chưa kiện toàn bộ máy an ninh của họ. Các tổ tình báo này hoạt
động được hơn một thập niên nhưng sau cùng cũng bị lộ, bị bắt giam,
và đưa ra tòa xét xử. Vụ án xét xử 10 gián điệp (tất cả đều là
đảng viên Quốc Dân Ðảng, với 2 bản án tử hình) tại tòa án Hải
Phòng vào tháng 4-1965 đã làm chấn động Miền Bắc, như chúng ta thấy
trong hình sau đây: 46
Tòa Án Hải Phòng Xét Xử Vụ Án Gián Ðiệp Tháng
4-1965 (Xuất xứ của ảnh: Lấy từ sách “Spies and Commandos,” tr. 13)
Trong thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực
về tài chánh và kỹ thuật của CIA, đã gửi nhiều điệp viên và các
toán biệt kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác
về thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại. Cơ quan của
VNCH hợp tác với CIA trong kế hoạch này là một đơn vị tình báo lúc
đầu trực thuộc Phủ Tổng Thống dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê
Quang Tung (sau thăng lên cấp Ðại Tá, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Ðặc
Biệt), với tên gọi thay đổi nhiều lần: Phòng Liên Lạc Phủ Tổng
Thống, Phòng 45, Sở Bắc, Sở Khai Thác Ðịa Hình. Sau cuộc đảo chánh
ngày 1-11-1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình bị giải tán, và ngày 12-2-1965,
Nha Kỹ Thuật được thành lập để đảm nhận công tác tình báo này và
được đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Lúc đầu, kế hoạch này chỉ gửi từng điệp viên đơn
độc ra nằm vùng tại Miền Bắc (trong ngữ vựng của CIA gọi là các
“singletons”). Ðiệp viên đầu tiên được gửi ra Miền Bắc trong kế hoạch
này là Phạm Chuyên, một cựu đảng viên Cộng Sản của tỉnh bộ Quảng
Ninh, đã từ bỏ đảng và di cư vào Nam. Chuyên được huấn luyện rất kỹ
trong hơn 1 năm và sau đó được bí mật đưa ra ém ở Cẩm Phả, trong vùng
Vịnh Hạ Long, vào tháng 4-1961, với bí danh là ARES. Nhưng chỉ được
hơn 2 tháng thì ARES đã bị bắt. ARES đã hàng địch, trở thành công cụ
của địch, và gửi nhiều điện văn về để lừa CIA. Lúc đó CIA vẫn chưa
biết sự phản bội của ARES, vẫn tiếp tục chương trình ”singletons”
này. Kết quả là, cũng giống như ARES, các “singletons” kế tiếp, với
các bí danh HIRONDELLE, HERO, TRITON, ATHENA, đều “biến mất” hết một
cách bí mật. Sang năm 1962, tuy vẫn chưa nghi ngờ ARES, CIA đã bắt đầu
không còn tin tưởng vào hiệu quả của chương trình “singletons” nữa và
bắt đầu chuyển sang chương trình cho các toán biệt kích, từ 3 đến 8
người, nhảy dù xuống Miền Bắc. Riêng về “singleton” ARES, thì từ 1966
CIA đã bắt đầu nghi ngờ và khi họ bố trí cho ARES “trở ra”
(exfiltrate) thì ARES không làm theo chỉ thị; lúc đó CIA mới biết chắc
ARES đã trở thành công cụ của tình báo BẮc Việt và chấm dứt liên
hệ với ARES. Tuy nhiên tình báo Bắc Việt vẫn tiếp tục sử dụng ARES
và ARES vẫn tiếp tục gừi điện về cho mãi đến tận năm 1968.47
Chương trình đưa biệt kích ra Miền Bắc chính thức
bắt đầu bằng NSAM 28 (NSAM = National Security Action Memorandum No. 28,
ngày 9-3-1961), theo đó Tổng Thống John F. Kennedy (1961-1963) ra chỉ thị
cho CIA phát động chiến tranh du kích tại Miền Bắc. Trong tháng 4-1961
xảy ra vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ở Cuba do CIA tổ chức
bị thất bại nặng nề, Tổng Thống Kennedy mất tin tưởng vào khả năng
tổ chức những công tác bán quân sự bí mật của CIA. Cuối tháng
6-1961, một loạt NSAM ra đời (NSAM 55, 56 và 57, cùng ngày 28-6-1961)
nhằm chuyển giao loại công tác đó qua cho Bộ Quốc Phòng, với CIA trong
vai trò yểm trợ mà thôi.
CIA, thật ra, đã chuẩn bị từ trước. Họ đã tuyển
người (tất cả đều là người gốc Miền Bắc), huấn luyện (tại căn cứ
huấn luyện ở Long Thành, về sau trở thành Trung Tâm Huấn Luyện Quyết
Thắng) và chuẩn bị cho chuyến xuất phát đầu tiên vào ngày 27-5-1961.
Toán biệt kích gồm 4 người này được đặt bí danh là CASTOR, với
người chỉ huy là Trung sĩ Hà Văn Chấp, cùng 3 toán viên là Ðinh Văn,
Quách Thưởng và Phạm Công Thương,48được thả xuống vùng đồi 828, thuộc
tỉnh Sơn La. Người phi công lái chiếc máy bay C-47 chở toán CASTOR đó
chính là Tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó ông còn mang lon Thiếu Tá và
là Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn Vận Tải của Không Quân VNCH). Toán CASTOR
không tồn tại được lâu, họ bị Công An Vũ Trang của Bắc Việt phát
hiện, bao vây và đã phải đầu hàng sau 3 ngày. Cũng như với vụ ARES,
Bắc Việt cũng giữ kín vụ bắt được toán CASTOR. CIA hoàn toàn không
nghi ngờ gì cả và tiếp tục gửi toán thứ nhì gồm 3 người với bí
danh là ECHO vào ngày 2-6-1961. Còn tệ hơn toán CASTOR, cả toán ECHO 3
người này đều bị bắt vào ngay hôm sau. CIA không biết là toán ECHO đã
bị địch bắt và 12 ngày sau lại gửi toán thứ ba, bí danh DIDO, gồm 4
người thuộc sắc dân thiểu số Thái Ðen, vào Lai Châu. Lần này, phi công
của chiếc máy may C-47 vẫn là Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ. Toán DIDO cũng
không may mắn hơn toán ECHO. Họ bị bắt hết tại biên giới Việt-Lào
vào khoảng 10 ngày sau. Khoảng hơn một tháng sau ngày toán CASTOR nhảy
xuống Sơn La, ngày 29-6-1961, đài tiếp vận BUGS của CIA ở Phi Luật Tân
nhận được điện của CASTOR. Không biết CASTOR đã bị bắt và hàng địch,
CIA rất vui mừng và thông báo cho CASTOR biết 4 ngày sau sẽ gửi đồ
tiếp tế cho CASTOR. Theo kế hoạch, chuyến bay này sẽ lại do Thiếu Tá
Nguyễn Cao Kỳ điều khiển nhưng vào giờ chót đã có sự thay đổi và
phi công là Trung Úy Phan Thanh Vân. Chiếc C-47 này đã bị đơn vị phòng
không của Bắc Việt bắn hạ khi bay ngang không phận của Hòn Né, gần
bờ biển của tỉnh Ninh Bình, và rớt trong một khu đồn điền cách bờ
biển khoảng 20 km. Tất cả phi hành đoàn đều bị thương, sau đó có 4
người chết vì vết thương quá năng, 3 người còn sống bị đưa ra tòa
xét xử vào tháng 11-1961. Ðể tiếp tục đánh lừa CIA và cơ quan tình
báo của VNCH về CASTOR, Bắc Việt đã dàn cảnh cho 3 người này khai
trước tòa là phi vụ của họ là để tiếp tế cho 1 toán biệt kích
trong vùng tỉnh Hòa Bình (chớ không phải cho toán CASTOR ở Sơn La).
Phòng 45 của Trung Tá Lê Quang Tung và CIA tin là toán CASTOR vẫn còn
là phe ta, chương trình cài biệt kích này đã thành công nên lại tiếp
tục gửi các toán biệt kích ra Bắc. Toán biệt kích kế tiếp mang bí
danh là EUROPA và gồm 5 người gốc Mường. Lần này, phi cơ được sử
dụng là loại C-54, phi công vẫn là ông Kỳ lúc này đã thăng lên cấp
Trung Tá. Chiếc C-54 này bay thẳng từ Sài Gòn (không cần phải ghé để
được tiếp nhiên liệu như chiếc C-47 của các lần trước) ra Bắc và thả
toán EUROPA xuống vùng Hòa Bình. Ngày hôm sau cả toán EUROPA 5 người
Mường này đều bị bắt. Lại dùng phương thức cũ, tình báo Bắc Việt
lại để cho người của toán EUROPA gửi điện về. CIA và Phòng 45 lại
tin là thêm một phi vụ thành công nữa.49 Việc đưa biệt kích ra Bắc
lại được CIA tiếp tục với các toán ATLAS (tháng 3-1962), REMUS (tháng
4-1962), TOURBILLON (tháng 5-1962), và EROS (tháng 6-1962), và, cũng như
các toán trước, các toán này đều bị Công An Vũ Trang của Miền Bắc
phát hiện, truy lùng và bắt giữ hết.
Kể từ mùa Hè năm 1962, thực thi các NSAM 55, 56 và
57, Chính phủ Hoa Kỳ giao lại công tác này cho Bộ Quốc Phòng, và CIA
chỉ còn giữ vai trò yểm trợ mà thôi. Phái bộ quân sự Mỹ tại VN,
MACV (thành lập ngày 8-2-1962 thay thế cho MAAG = Military Assistance
Advisory Group) cho thành lập đơn vị SOG (lúc đầu mang tên là Special
Operations Group, sau đổi tên lại là Studies and Observations Group). Thành
viên của SOG hoàn toàn là người tình nguyện, phần lớn thuộc Lực
Lượng Ðặc Biệt của quân đội Mỹ. Trong thời gian 1962-1963, VNCH trải
qua nhiều xáo trộn chính trị nghiêm trọng. Vì những xáo trộn chính
trị này của VNCH, nên mãi đến tháng 4-1964, SOG mới triển khai hoạt
động với các đơn vị của cơ quan tình báo mới của QLVNCH là Nha Kỹ
Thuật thuộc Bộ Tổng Tham Mưu.
Vào đầu năm 1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình được cải
danh thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB) và vẫn do Ðại Tá Lê
Quang Tung chỉ huy. Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, Lực Lượng Ðặc Biệt
không còn đảm nhận công tác tình báo nữa. Sở Bắc (Phòng 45 đổi tên)
được tách ra khỏi LLÐB, và cải danh thành Sở Khai Thác và trực thuộc
Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM). Sau đó Sở Khai Thác được đổi tên một lần nữa
thành Sở Kỹ Thuật, và ngày 12-2-1965 được nâng cấp lên thành Nha Kỹ
Thuật thuộc BTTM,50 với sơ đồ tổ chức như sau:
(Sơ đồ tổ chức này được trình bày dựa trên thông tin
lấy ra từ tài liệu trực tuyến Nha Kỹ Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa tại địa chỉ Internet )
Các công tác của Nha Kỹ Thuật được phân chia cho các
cơn vị trực thuộc như sau:
• Sở Công Tác: đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng; nhiệm vụ
của các Ðoàn thuộc Sở này là xâm nhập bằng đường hàng không hay
đường bộ vào lòng địch tại Miền Bắc hay các vùng biên giới với Lào
và Kampuchia.
• Sở Liên Lạc: đóng tại Sài Gòn; nhiệm vụ của các
Chiến Ðoàn (Biệt Kích Lôi Hổ) thuộc Sở này là xâm nhập vào hậu
tuyến của địch trong lãnh thổ của VNCH từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam
• Sở Phòng Vệ Duyên Hải: đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng;
Lực Lượng Hải Tuần có trách nhiệm tuần tra, bảo vệ bờ biển, chận
bắt tàu bè của địch xâm nhập vùng biển của VNCH; Lực Lượng Biệt
Hải có nhiệm vụ huấn luyện và đưa người nhái xâm nhập Miền Bắc với
phương tiện của Hải Tuần
• Sở Tâm Lý Chiến: đóng tại Sài Gòn; với nhiệm vụ
tổ chức và điều hành hai đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do và Gươm
Thiêng Ái Quốc hướng về Miền Bắc.
• Sở Không Yểm: đóng tại Sài Gòn; có nhiệm vụ phối
hợp các phi đoàn của Không Quân VNCH trong việc thả, rút, liên lạc và
hướng dẫn các toán kiệt kích xâm nhập Miền Bắc và hậu phương địch.
• Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng: đóng tại Long
Thành; có nhiệm vụ huấn luyện cho các toán biệt kích.
Sự thành lập Nha Kỹ Thuật của BTTM với đầy đủ tất
cả các đơn vị và phương tiện cần thiết cho việc xâm nhập Miền Bắc,
với sự yểm trợ tích cực của SOG về phía Hoa Kỳ, thật ra không cải
thiện được hiệu quả của công tác này.
Ngay từ cuối năm 1963, vào ngày 20 tháng 11, một cuộc
họp hết sức quan trọng đã diễn ra tại Honolulu, Hawaii, với các giới
chức cao cấp nhứt của chính phủ Mỹ, gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert
S. McNamara, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Thứ Trưởng Ngoại Giao George
Ball, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Kennedy McGeorge Bundy,
Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINCPAC =
Commander-In-Chief, Pacific) Ðô Ðốc Harry D. Felt, Giám Ðốc CIA John McCone,
Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge và Tư Lệnh MACV Ðại Tướng
Paul Harkins. Cuộc họp có mục đích thảo luận về việc chuyển giao công
tác xâm nhập người của VNCH ra Miền Bắc từ CIA sang cho MACV-SOG. William
Colby, cựu Trưởng Trạm CIA tại Sài Gòn, người từng chủ trương, cổ
vũ, và đích thân thực hiện công tác này tại VNCH, lúc đó đã thăng
cấp và đảm nhiệm chức vụ Trưởng Phân Bộ Viễn Ðông (Far Eastern
Division Chief) của CIA, đã được Giám Ðốc CIA McCone chỉ định thuyết
trình về công tác gửi người xâm nhập Miền Bắc. Ông đã tỏ ra rất bi
quan khi ông cho biết phần lớn các toán biệt kích gửi ra Miền Bắc
đều “đã bị bắt hay đã bị giết chết.” Trong phần kết luận, ông nói
trắng ra như sau: “It isn’t working, and it won’t work any better with the
military in charge.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chuyện đó
không làm được, và cũng sẽ không làm được gì khá hơn với quân đội
lãnh trách nhiệm”).51
Dĩ nhiên, lời cảnh báo này của Colby không được nghe
theo và SOG cùng với các đơn vị của Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM QLVNCH
vẫn tiếp tục việc gửi các toán biệt kích xâm nhập ra Miền Bắc, với
kết quả là “đem con bỏ chợ.” Tất cả biệt kích đều bị bắt, bị tra
tấn tàn bạo, và bị giam cầm trong các trại lao cải ở Miền Bắc trong
hàng chục năm trời. Gia đình của một số biệt kích quân được báo tin
là họ đã tử trận, một số được lãnh tiền bồi thường tử tuất. CIA
và quân đội Mỹ đã hoàn toàn bỏ rơi họ. Dân quân VNCH hoàn toàn không
biết gì hết về số phận của những người lính biệt kích này. Mãi
đến sau năm 1975, khi một số sĩ quan QLVNCH đi học tập cải tạo ở Miền
Bắc được thả về, kể lại chuyện được gặp các biệt kích quân đó
trong các trại cải tạo, dân chúng Miền Nam mới có những thông tin đầu
tiên về số phận của các biệt kích quân này.
Chương trình gửi người xâm nhập Miền Bắc để thực
hiện các công tác tình báo của VNCH, trong một thời gian khá dài,
với những chi phí rất tốn kém, đã thất bại hoàn toàn. Có 2 lý do
chính cho sự thất bại này: 1) VNCH không có được một hạ tầng cơ sở
tại Miền Bắc để hỗ trợ cho loại công tác này; và, 2) Hệ thống an
ninh của Miền Bắc quá chặt chẽ khiến cho các biệt kích rất dễ bị
phát hiện, truy lùng và bắt giữ.
Miền Bắc Cài Người Hoạt Ðộng Tại Miền Nam
So với VNCH, Miền Bắc có nhiều thuận lợi hơn trong
việc cài người ở Miền Nam. Có 2 lý do chính cho việc này: 1) Trong
thời gian kháng chiến chống Pháp, 1945-1954, Việt Minh nắm trọn quyền
điều khiển Kháng Chiến; đảng viên Cộng sản có mặt khắp nơi trong
Miền Nam; khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, trong việc tập kết quân
đội tại Miền Nam để chuyển ra Bắc, một số khá lớn đảng viên Cộng
sản đã nhận được lệnh ở lại Miền Nam; và 2) Phong trào di cư của
người Bắc vào Nam trong thời gian 100 ngày sau khi Hiệp Ðịnh Genève
được ký kết vào tháng 7-1954 tạo cơ hội quá tốt cho Hà Nội cài
người. Ðó là nguồn nhân lực rất quan trọng cho Cộng sản sử dụng
trong việc cài người trong dân chúng cũng như bộ máy chính quyền (cả
chính trị và quân sự) của VNCH. Phần lớn những người này đã có
mặt, sinh sống, và làm việc như mọi người dân khác của Miền Nam, ngay
cả trước khi VNCH được thành lập, nên họ đều có một vỏ bọc rất
tốt, giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao” trong
guồng máy chánh trị và quân sự của VNCH. Sau đây là một vài nhận
vật thật nổi tiếng trong số những người này.
Trong số những người theo Việt Minh kháng chiến chống
Pháp nhưng đã không tập kết ra Bắc mà ở lại Miền Nam nổi tiếng nhất
là Phạm Ngọc Thảo.52 Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, ông đã xâm nhập
được vào quân đội Miền Nam, được chế độ Ngô Ðình Diệm tin dùng và
bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) lúc ông
đang mang cấp Trung Tá. Sau tháng 11-1963, ông thăng lên cấp Ðại Tá và
đã tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 19-2-1965 chống Tướng Nguyễn
Khánh nhưng thất bại vì sự chống đối của các tướng trẻ. Sau vụ này
ông bỏ trốn nhưng bị bắt và bị giết chết. Mãi đến năm 1987, phe Cộng
Sản mới công khai xác nhận ông Thảo là người của họ, truy tặng ông
cấp bậc Ðại Tá của Quân Ðội Nhân Dân và danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng
Vũ Trang Nhân Dân.
Trong số những người Cộng sản lợi dụng phong trào di
cư năm 1954 để vào Nam hoạt động nổi tiếng nhất phải kể đến Vũ Ngọc
Nhạ, đảng viên Cộng sản từ năm 1947. Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh
ngày 30-3-1928 tại Thái Bình, Bắc Việt, xuất thân từ một gia đình
theo Công giáo, sinh sống trong vùng Phát Diệm nổi tiếng chống Cộng
dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Lê Hữu Từ, bản thân có theo học mấy
năm ở một chủng viện, và đã theo làn sóng người Công giáo di cư vào
Nam sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, và sau đó lại được Linh Mục Hoàng
Quỳnh đỡ đầu, Vũ Ngọc Nhạ đã thoát được không bị kết án sau khi bị
Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung của Ngô Ðình Cẩn phát hiện và bắt
giam tại Huế vào tháng 12-1958. Một thời gian sau, cũng lại với cái
vỏ bọc Công giáo đó, cùng với bài viết vào cuối năm 1959 “Bốn nguy
cơ đe dọa chế độ” dự đoán sẽ có đảo chánh và sau đó có đảo chánh
xảy ra thật sự vào ngày 11-11-1960, Nhạ đã được Ngô Ðình Cẩn tin
dùng và sau đó giới thiệu cho hai người anh là Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm và Cố Vấn Ngô Ðình Nhu. Nhạ được hai anh em họ Ngô giao cho nhiệm
vụ liên lạc với khối Công giáo di cư nhưng chưa lập được thành tích
gì thì chế độ nhà Ngô sụp đổ. Sau đảo chánh 1-11-1963, Nhạ tiếp tục
làm việc với cha Hoàng Quỳnh, và sau đó được cha Hoàng Quỳnh giới
thiệu với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Nhạ lại được Tướng Thiệu sử
dụng trong việc móc nối với khối Công giáo. Khi Tướng Thiệu trở
thành Tổng Thống, Nhạ thường được Tổng Thống Thiệu tham khảo về một
số vấn đề chính trị có liên quan đến khối Công giáo. Nhạ được lệnh
của Hà Nội tổ chức 1 cụm tình báo chiến lược với bí danh A-22,
trong đó có Huỳnh Văn Trọng, lúc đó chính thức là Cố Vấn của Tổng
Thống Thiệu. Cụm A-22 gồm một số những người đã từng bị Ðoàn Công
Tác Ðặc Biệt Miền Trung phát hiện và giam giữ tại Huế. Ðây là một
sơ hở của Nhạ khiến cho CIA phát hiện được cụm A-22 và lập hồ sơ
chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam. Giữa tháng 7-1969,
tất cả 42 người hoạt động cho Cụm A-22 đều bị bắt và đưa ra toà xét
xử vào tháng 11-1969. Ðây là một vụ án gián điệp rất nghiêm trọng
gây chấn động trong chính trường của VNCH vì các bị cáo đều là
người có chức vụ khá cao trong chính phủ như sau:
• Vũ Ngọc Nhạ: “cố vấn” bán chính thức của Tổng
Thống Thiệu
• Huỳnh Văn Trọng: cố vấn về đối ngoại của Tổng
Thống Thiệu
• Vũ Hữu Ruật: Tổng Thư Ký của Ðảng Dân Chủ, Thành
bộ Sài Gòn
• Lê Hữu Thúy: Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin – Chiêu
Hồi
• Nguyễn Xuân Hòe, Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống
• Hoàng Hồ, Dân Biểu Quốc Hội (đã bỏ trốn; sau đó
Quốc Hội đã bỏ phiếu truất quyền)
Huỳnh Văn Trọng ( giữa ) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh
án 20 năm
Vũ Ngọc Nhạ bị kết án tù chung thân và đưa ra Côn
Ðảo. Năm 1973, sau Hiệp Ðịnh Paris, Nhạ được trao trả cho Cộng sản. Sau
năm 1975, Nhạ công tác tại Cục 2 (cơ quan phụ trách tình báo của Việt
Nam) với cấp bậc Thượng Tá và sau đó thăng lên Ðại Tá. Năm 1988, Nhạ
được thăng cấp Thiếu Tướng. Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Thành phố Hồ
Chí Minh.53
Nhà báo Phạm Xuân Ẩn
Người điệp viên nổi tiếng nhất của Miền Bắc hoạt
động tại Miền Nam là Phạm Xuân Ần. Khác với Phạm Ngọc Thảo và Vũ
Ngọc Nhạ, Ần đã tạo được kỳ tích là hoạt động trong suốt mấy chục
năm mà hoàn toàn không bị phát hiện hay tạo ra nghi ngờ gì cả trong
giới tình báo Hoa Kỳ và VNCH. Ần sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa, học
tiểu học tại Trường Tiểu học Marc Ferrando ở Sài Gòn, học trung học
ở Cần Thơ. Năm 1954 ông bị động viên và làm việc cho quân đội Pháp
một thời gian. Ông là điệp viên duy nhứt của Miền Bắc đã từng du học
2 năm (1957-1959) về ngành báo chí tại Ðại Học Cộng Ðồng Orange Coast
College, thuộc thành phố Costa Mesa, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Nhờ
vào đó, ông là một trong số rất ít người Việt Nam được nhận làm
phóng viên cho các hãng truyền thông Anh Mỹ như Reuters, Time, Christian
Science Monitor. Nhờ vỏ bọc này, Ần đã có giao thiệp rộng rãi với
các nhà báo Mỹ, qua đó tạo được quan hệ rất tốt với nhiều giới
chức Mỹ-Việt, và nhờ vậy đã cung cấp được cho Hà Nội nhiều tin tức
tình báo chiến lược rất quan trọng. Sau năm 1975, ông được phong Thiếu
Tướng, và được ban danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân. Ông
mất ngày 20-9-2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh.54 Cuộc đời ông đã được
ghi lại trong một cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (Best-seller)
tại Hoa Kỳ của tác giả Giáo sư Chính Trị Học Larry Berman thuộc Ðại
Học California, Davis với nhan đề là: Perfect spy: the incredible double
life of Pham Xuan An, Time Magazine reporter and Vietnamese Communist agent
(New York: Smithsonian Books, 2007; 328 tr.).
Một điều cũng đáng được lưu ý là cả 3 điệp viên
nổi tiếng này của Miền Bắc, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ và Phạm
Xuân Ẩn, sau khi qua đời, đã được an táng gần nhau trong cùng nghĩa
trang Lạc Cảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài 3 điệp viên nổi tiếng trên mà phần đông mọi
người đều có nghe nói đến, cũng nên kể đến một điệp viên thứ tư, ít
người biết, là điệp viên H3, là một hạ sĩ quan, tên Nguyễn Văn Minh
(sinh năm 1933, tại Hưng Yên, vào Nam sinh sống từ lúc còn nhỏ), làm
việc ngay trong văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu
Trưởng QLVNCH. Sau năm 1975, H3 được phong quân hàm Ðại Tá, và ban danh
hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân. (Sẽ đề cập đến H3 trong
phần bên dưới của bài viết).
Nói chung, nhờ có được nhiều điều kiện thuận lợi
hơn, Miền Bắc tương đối thành công hơn Miền Nam trong việc cài người
xâm nhập vào hệ thống chính trị và quân sự của đối phương.
Tình Báo Trong Một Số Trận Ðánh Quan Trọng
Trong suốt thời gian khoảng trên dưới 20 năm chiến
tranh đó, hệ thống tình báo của cả 2 phe đã hoạt động rất tích cực
và đạt hiệu quả khá cao nhưng vẫn không tránh khỏi có những thất
bại rất nghiêm trọng. Phần này của bài viết cố gắng tìm hiểu, phân
tích và đánh giá các hoạt động tình báo của cả 2 phe trong 2 trận
đánh quan trọng và tiêu biểu của 2 giai đoạn trong Chiến tranh Việt
Nam: 1) Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (tháng 2-1968) của giai đoạn
có quân Mỹ tham chiến; và 2) Trận Ban Mê Thuột (tháng 3-1975) sau Hòa
Ðàm Paris và quân Mỹ đã rút khỏi Miền Nam.
Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (Tháng 2-1968)
Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân bắt đầu vào ngày
31-1-1968 (mùng 2 Tết Mậu Thân) trên khắp các thành phố của VNCH là
một bất ngờ rất lớn trong cuộc chiến tranh vì cả 2 phe lâm chiến đều
đã đồng ý hưu chiến 3 ngày trong thời gian Tết. Phần lớn quân nhân,
công chức của VNCH đều được nghỉ phép để về quê ăn Tết với gia đình
(kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng về ăn Tết ở quê vợ là Mỹ
Tho). Việc không tiên đoán được cuộc tấn công với quy mô lớn như vậy
của phe Cộng Sản là một thất bại rất lớn về tình báo của cả VNCH
và Hoa Kỳ. Câu hỏi cần phải đặt ra là tại sao VNCH và Hoa Kỳ, với
một hệ thống tình báo to lớn, đầy đủ và tinh vi như vậy mà không
phát hiện được sự chuẩn bị của phe Cộng sản cho cuộc tổng tấn công
này. Ðể có thể trả lời câu hỏi quan trọng này, chúng ta cần phải
tìm hiểu những diễn biến trong cuộc chiến từ sau khi Hoa Kỳ đưa quân
bộ chiến vào Miền Nam từ tháng 3-1965.
Sau cuộc đổ bộ của 5.000 Thủy Quân Lục Chiến vào Ðà
Nẵng ngày 8-3-1965, quân số Mỹ tại Miền Nam đã gia tăng một cách vô
cùng nhanh chóng: 55
• Cuối năm 1965: tổng số quân Mỹ là184.300
• Cuối năm 1966: tổng số quân Mỹ là 385.300
• Cuối năm 1967: tổng số quân Mỹ là 485.600
Trong mùa khô 1966-1967, trong chiến lược “lùng và
diệt địch” (search and destroy) của Tướng Tư Lệnh MACV Westmoreland, quân
đội Mỹ đã tổ chức ít nhứt là 5 cuộc hành quân lớn (cấp sư đoàn)
tấn công vào các mật khu, căn cứ an toàn, và các trung tâm hậu cần
của phe Cộng sản: 56
• Hành quân Attleboro: tại Dầu Tiếng (Tây Ninh), từ
ngày 14-9 đến ngày 24-11-1966
• Hành quân Paul Revere IV: tại Thung lũng Plei Trap
(phía Tây Pleiku, gần khu vực ba biên giới), từ ngày 20-10 đến ngày
30-12-1966
• Hành quân Thayer II: tại BÌnh Ðịnh, từ ngày
25-10-1966 đến ngày 12-2-1967
• Hành quân Cedar Falls: trong khuTam Giác Sắt (Bến
Cát, tỉnh Bình Dương ), từ ngày 8 đến 26-1-1967
• Hành quân Junction City: trong Chiến Khu C (Tây Ninh,
nơi đóng tổng hành dinh của TUC), từ ngày 22-2 đến ngày 14-5-1967 (đây
là cuộc hành quân trực thăng vận Việt-Mỹ lớn nhứt trong Chiến tranh
Việt Nam, với tổng số 25.000 quân tham chiến)
Các cuộc hành quân này, cùng với rất nhiều những
cuộc hành quân khác của QLVNCH và các quân đội đồng minh trong thời
gian 1966-1967 đã gây thiệt hại rất nặng nề về quân số (cả Việt cộng
và Bắc Việt), tổ chức (mật khu, khu an toàn), và hậu cần (lương
thực, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng) của phe Cộng sản. Tổng
hành dinh của TUC (COSVN) trong Chiến Khu C phải dời sang lãnh thổ của
Kampuchia. Tinh thần cán bộ, binh sĩ Cộng sản bị dao động, sa sút rất
nghiêm trọng; điều này thể hiện rất rõ trong các quyển nhật ký của
binh sĩ Bắc Việt tịch thu được trong các cuộc hành quân Việt-Mỹ. Số
cán binh Cộng sản về hồi chánh cũng gia tăng lên rất nhiều.
Về mặt an ninh lãnh thổ của VNCH, chương trình bình
định (Pacification) trong các vùng nông thôn cũng đang tạo được nhiều
thành quả đáng kể từ giữa năm 1967 với những số thống kê như sau:
• 67% dân chúng sinh sống trong các vùng do chính phủ
VNCH kiểm soát
• 222 quận (trong tổng số 242) được xem là có an ninh
• 8.650 ấp (trong tổng số 12.600) đã được bình định
xong
Robert W. Komer (1922-2000), đứng đầu Chương trình CORDS
(Civil Operations and Revolutionary Development Support) của MACV phụ trách
về bình định (gồm cả Chương trình Phượng Hoàng—Phoenix Program—với
mục tiêu là tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng—VCI =
Viet Cong Infrastructure), đã lạc quan báo cáo về tình hình Chiến tranh
Việt Nam cho Tổng Thống Johnson vào ngày 28-2-1967 như sau: “…wastefully,
expensively, but nonetheless indisputably, we are winning the war in the
South.” 57 (xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “…phí phạm, tốn kém
nhưng không thể chối cãi được, chúng ta đang thắng cuộc chiến tại Miền
Nam”).
Cũng trong thời gian này, về phương diện chính trị,
VNCH đã vượt qua được thời kỳ hỗn loạn và đã thành công tạo được
sự ổn định với Hiến Pháp 1967 đưa đến việc thành lập của nền Ðệ
Nhị Cộng Hòa vào cuối năm 1967.58
Tất cả các điều này đã tạo ra cho các cấp lãnh
đạo Việt-Mỹ (kể cả các cấp lãnh đạo về tình báo) một tinh thần lạc
quan quá trớn đưa đến sai lầm trong nhận định và đánh giá về quyết
tâm và khả năng của phe Cộng sản.
Việc tiến hành cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân đã
được lãnh đạo của Ðảng Lao Ðộng Việt Nam quyết định tại Hà Nội trong
phiên họp của Bộ Chính Trị vào ngày 7-7-1967,59 và ngày khởi sự
cuộc tấn công đã được định là ngày 29-1-1968, tức là ngày Mùng 1
Tết Mậu Thân, sau đó được dời lại một ngày, là ngày 30-1-1968, tức
là Mùng 2 Tết Mậu Thân.60 Như vậy, VNCH và Hoa Kỳ đã có một khoảng
thời gian gần 7 tháng mà vẫn không tiên đoán được về cuộc tấn công
và hoàn toàn bị bất ngờ. Có đúng thật là hệ thống tình báo của
VNCH và Mỹ đã hoàn toàn bất lực? Sự thật không phải như vậy. Cả
VNCH và Hoa Kỳ đều có nắm được một số tin tình báo về cuộc tấn
công này.
Về phía VNCH, Phòng 2 BTTM QLVNCH đã nhận được một
số tin tức và tài liệu của phe Cộng sản như sau: 61
• Tháng 3-1967: một tài liệu tịch thu được của Công
Trường 5 (tức là Sư Ðoàn 5 của Việt Cộng) về một kế hoạch tấn công
vào Sài Gòn
• Ðầu tháng 10-1967: tài liệu học tập về Nghị Quyết
13 của Trung Ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, kêu gọi thực hiện một cuộc
tổng tấn công để đạt chiến thắng nhanh chóng
• Cũng trong tháng 10-1967: một tài liệu của Chiến
Trường B-3 (mật danh của phe Cộng sản để chỉ vùng Cao Nguyên Trung
Phần của VNCH), tịch thu được tại Dakto, đề cập đến những chuẩn bị
với quy mô lớn cho Chiến dịch Ðông-Xuân 1968
• Cuối tháng 11-1967: một tài liệu đề ngày 1-9-1967,
với tựa đề “Sứ mạng mới, công tác mới,” đề cập đến một cuộc tấn
công lớn cùng với một cuộc tổng nổi dậy của dân chúng với tên tắt
là “TCK-TKN” (viết tắt cho cụm từ Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa)
• Một số tài liệu lẻ tẻ đề cập đến cách tác
chiến trong thành phố, một hình thức chiến thuật trước kia không bao
giờ được đề cập đến trong các tài liệu tịch thu được
Như vậy, rõ ràng là tình báo VNCH có nắm được một
số tin về ý đồ của phe Cộng sản cho một cuộc tấn công quy mô lớn
vào các thành phố của VNCH. Vậy tại sao các cấp lãnh đạo của hệ
thống tình báo VNCH đã không khuyến cáo chính phủ để chuẩn bị đối
phó với cuộc tổng tấn công đó khiến cho VNCH hoàn toàn bị bất ngờ.
Có hai lý do chính: 1) Cũng cùng tâm trạng lạc quan như các cấp lãnh
đạo chính trị và quân sự, giới lãnh đạo tÌnh báo VNCH không tin là
phe Cộng sản, trong tình trạng sa sút tinh thần trầm trọng của cán
binh và sự thiệt hại nặng nề về vật chất (quân số, tiếp liệu, vv)
trong các năm 1966-1967, có thể thực hiện nổi một cuộc tổng tấn công
như vậy; nhận định và đánh giá của giới tình báo VNCH là: “Địch có
ý đồ nhưng không có khả năng.” Giới tình báo VNCH tin rằng ngay như
nếu họ có báo động thì các cấp lãnh đạo quân sự cũng sẽ không
tin.62 2) Nhận định và đánh giá vừa kể cũng dựa trên tin tưởng là
địch vẫn còn trong Giai đoạn 1 của Chiến lược mà họ đã theo đuổi từ
lâu. Chiến lược này đã từng được áp dụng rất thành công trong Kháng chiến
chống Pháp (1946-1954), nên lại được áp dụng một lần nữa trong cuộc
chiến tranh này và gồm 3 giai đoạn: 1) Giai đoạn 1: Phòng ngự, 2) Giai
đoạn 2: Chuẩn bị tổng tấn công, và 3) Giai đoạn 3: Tổng tấn công.
Giới tình báo VNCH không tin là phe Cộng sản có khả năng tiến thẳng từ
giai đoạn 1 sang ngay Giai đoạn 3.
Về phía Hoa Kỳ, cách nhận định và đánh giá tin của
giới tình báo có phần hơi khác với phía VNCH. Thời gian 7 tháng (từ
ngày 7-7-1967 cho đến 30-1-1968) có thể chia làm 2 giai đoạn:
• Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 11-1967: giới tình
báo Hoa Kỳ, đồng quan điểm với giới tình báo VNCH, tin rằng phe Cộng
sản vẫn còn trong Giai đoạn 1, nghĩa là không tin vào khả năng hiện
thực của cuộc tổng tấn công
• Từ đầu tháng 12-1967: giới tình báo Hoa Kỳ, dựa
trên những tin tức mới, đã tin là kế hoạch tổng tấn công của phe
Cộng sản là có thật và họ đã có tiến hành việc chuẩn bị đối phó
với cuộc tổng tấn công này
Chúng ta cố gắng tìm hiểu xem mọi việc đã xảy ra
như thế nào về phía Hoa Kỳ trong giai đoạn từ đầu tháng 12-1967 trở
đi.
Trước hết, trong tháng 12-1967, tình báo Hoa Kỳ đã
ghi nhận một số lượng xe vận tải rất lớn di chuyển dọc theo đường
mòn Hồ Chí Minh: 6.313, so với 3.823 trong tháng 11-1967.63 Cũng trong
tháng này, tình báo Hoa Kỳ, cả CIA lẩn J2-MACV, đều ghi nhận việc sử
dụng nhiều loại vũ khí mới trong các đơn vị quân Cộng sản, như AK-47,
RPG-7 (tức là súng phóng lựu chống xe tăng B-40), súng phóng hỏa.
J2-MACV cũng phát hiện một số sư đoàn chủ lực của Bắc Việt, là các
Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 325, và Sư Ðoàn 304 (Sư Ðoàn 304 là sư đoàn đã từng
tham gia trận Ðiện Biên Phủ vào năm 1954) tập trung lại chung quanh căn
cứ Khe Sanh trong Vùng I. Tất cả những diễn tiến này khiến cho Tướng
Westmoreland, Tư Lệnh MACV, tin rằng phe Cộng sản sẽ đánh lớn tại Vùng
I và cuộc tấn công này sẽ xảy ra trong tháng 1-1968. Ông cũng nghĩ
rằng phe Cộng sản cũng sẽ tấn công khắp lãnh thổ VNCH nhưng đó chỉ
là nghi binh, để đánh lừa vì mục tiêu chính của cuộc tổng tấn công
này sẽ là tại Vùng I, dọc theo Khu Phi Quân Sự, với trọng điểm là
chung quang căn cứ Khe Sanh, và ông cũng không tin là phe Cộng sản sẽ
tấn công vào Thủ đô Sài Gòn, và vì vậy ông đã đồng ý giao lại
trách nhiệm bảo vệ Sài Gòn từ một đơn vị Hoa Kỳ cho Liên Ðoàn 5
Biệt Ðộng Quân của QLVNVCH tại một buổi lễ vào ngày 20-12-1967. Sau
đó, ông đích thân bay ra Vùng I để thị sát và thảo luận với Thiếu
Tướng Robert E. Cushman, Jr., Tư Lệnh Lưc Lượng Thủy Bộ số 3 của Thủy Quân
Lục Chiến Hoa Kỳ (3rd Marine Amphibious Force, 3rd MAF), về việc phòng
thủ dọc theo Khu Phi Quân Sự mà nếu cần, ông sẽ cho tăng cường thêm cả
Sư Ðoàn 1 Kỵ Binh Không Vận (1st Cavalry Division, phe Cộng sản thường
gọi là Sư Ðoàn 1 Anh Cả Ðỏ).64 Sự tin tưởng về trọng điểm của cuộc
tổng tấn công sắp đến của phe Cộng sản của Tướng Westmoreland xuất
phát từ suy nghĩ của ông về Chiến tranh Việt Nam và dựa trên kết quả
của các chiến lược mà ông đã áp dụng: “lùng và diệt địch” (search
and destroy), và “hao mòn” (attrition) từ năm 1965. Ṓng tin rằng Bắc Việt
quyết lòng đánh bại chiến lược tạo ra phòng tuyến bao che (shield
strategy) mà ông đã xây dựng dọc theo biên giới của VNCH và đặc biệt
là dọc theo phía Nam Khu Phi Quân Sự (vĩ tuyến 17) để ngăn chận sự xâm
nhập của quân Bắc Việt vào Miền Nam. Căn cứ quan trọng của lực lượng
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ tại thung lũng Khe Sanh đóng một vai
trò khá giống căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp vào năm 1954.
Ngày 30-12-1967, Ngoại Trưởng Bắc Việt Nguyễn Duy
Trinh tuyên bố tại một buổi tiếp tân của Bộ Ngoại Giao tại Hà Nội
là việc ngưng oanh tạc Bắc Việt sẽ đưa đến thương thuyết giữa Hoa Kỳ
và Bắc Việt. Ðây là một thay đổi quan trọng trong lập trường của Bắc
Việt về thương thuyết vì trước kia họ chỉ nói là việc Hoa Kỳ ngưng
oanh tạc có thể đưa đến việc thương thuyết. Ðiều này càng củng cố
thêm sự tin tưởng của Tướng Westmoreland là Bắc Việt (qua sắp xếp của
Tướng Võ Nguyên Giáp) đang tìm cách chơi lại ván bài mà họ đã chơi
và thắng trong Hội Nghị Genève năm 1954, với Khe Sanh sẽ đóng vai trò
Ðiện Biên Phủ trong ván bài lần này. Hai hôm sau, ngày 1-1-1968, Ðài
Phát Thanh Hà Nội lập lại lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Trinh, cho
thấy đây quả thật đã trở thành lập trường chính thức của Bắc Việt.
Qua tháng 1-1968, rõ ràng có những hoạt động của
quân Bắc Việt nhắm vào Khe Sanh. Vào đêm 2-1-1968, TQLC Mỹ đi tuần tra
đã bắn chết một số quân Bắc Việt (trong số này phát hiện có một
sĩ quan Trung Ðoàn Trưởng) đang thám thính gần căn cứ hỏa lực tại Khe
Sanh. Tướng Cushman tin rằng đó là bằng cớ chứng tỏ quân Bắc Việt sẽ
tấn công Khe Sanh.
Vì định kiến này, các cấp lãnh đạo tình báo và
quân sự Hoa Kỳ đã coi nhẹ và bỏ qua rất nhiều tin tức liên quan đến
các hoạt động quân sự của phe Cộng sản nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng
Tấn Công Tết Mậu Thân trong tháng 1-1968 như các vụ sau đây: 65
• Ngày 3-1-1968, J2-MACV đã có báo cáo về việc khám
phá vụ chôn dấu vũ khí của Việt Cộng trong một nghĩa địa trong vùng
ngoại ô Sài Gòn.
• Ngày 4-1-1968, QLVNCH khám phá một hầm chôn dấu vũ
khí quan trọng tại Ðịnh Tường (Vùng IV), trong số này có cả 55 quả
đạn bích kích pháo 55mm là loại vũ khí chưa từng được VC sử dụng
trong Vùng IV; sau đó một cán bộ VC chỉ huy một đại đội vận tải bị
bắt đã khai báo và hướng dẫn QLVNCH tìm thêm được 41 địa điểm chôn
dấu vũ khí nữa trong vùng.
• Cũng trong ngày 4-1-1968, J2-MACV đã có báo cáo về
việc một toán đặc công VC toan xâm nhập vào khu vực tổng hành dinh
của MCV tại Tân Sơn Nhất bằng cách xin công việc làm tại sân bay.
• Ngày 5-1-1968, J2-MACV cũng có báo cáo về một tài
liệu tịch thu được tại Pleiku mang tựa đề “Lệnh Tác Chiến Khẩn Cấp
Số 1”; ngoài kế hoạch tấn công Pleiku, tài liệu còn bao gồm cả chỉ
thị cho cán bộ trong việc kêu gọi dân chúng nổi dậy.
• Ngày 9-1-1968, tình báo Mỹ cũng tịch thu được một
tài liệu trình bày việc tổ chức lại hệ thống chỉ huy của VC.
Giới tình báo Mỹ chỉ thật sự quan tâm khi được giới
tình báo VNCH cho biết họ thật sự rất lo lắng về tin VC đã có kế
hoạch khủng bố lớn nhắm vào người Mỹ (cả dân sự lẩn quân sự) sinh
sống và làm việc tại Sài Gòn.
Cho đến gần cuối tháng 1-1968, Tướng Westmoreland vẫn
còn giữ nguyên định kiến của ông về ý đồ của phe Cộng Sản. Trong
báo cáo đề ngày 22-1-1968 gửi cho Ðô Ðốc Ulysses S. Grant Sharp, Jr.
(Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái BÌnh Dương, CINCPAC =
Commander-In-Chief, Pacific, cấp chỉ huy trực tiếp của Tướng
Westmoreland) và Ðại Tướng Earle G. Wheeler (Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa
Kỳ = Chairman of the Joint Chiefs of Staff), Tướng Westmoreland báo cáo như
sau: “I believe that the enemy will attempt a country-wide show of strength
just prior to Tet, with Khe Sanh being the main event. In II Corps, he will
probably attack Pleiku and Kontum cities, and I expect attacks on the Special
Forces camps at Da Seang, Duc Co, and Dak To. In III and IV Corps, province
towns are likely targets for renewed attacks by fire. Terrorism will probably
increase in and around Saigon.” 67 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau:
“Tôi tin rằng địch quân sẽ cố gắng thực hiện một cuộc biểu dương lực
lượng trên toàn quốc trước Tết, với Khe Sanh là biến cố chánh. Tại
Vùng II, có thể địch quân sẽ tấn công các thành phố Pleiku và Kontum,
và tôi cũng nghĩ là họ sẽ tấn công các trại Lực Lượng Ðặc Biệt
tại Dak Seang, Ðức Cơ và Ðắc Tô. Tại Vùng III và IV, các tỉnh lỵ có
thể lại là mục tiêu cho các cuộc pháo kích. Hoạt động khủng bố có
thể sẽ gia tăng tại Sài Gòn và các vùng phụ cận.”)
Trong các ngày 23-26 tháng 1-1968, J2-MACV liên tục
nhận được tin về các hoạt động khủng bố của địch nhắm vào thành
phố của VNCH, đặc biệt là thủ đô Sài Gòn. Sáng ngày 27-1-1968, Tướng
Davidson, J2-MACV, báo cáo tình hình cho Tướng Westmoreland, tiên đoán VC
sẽ có tấn công lớn trên toàn quốc, và ông đặc biệt nêu tên 2 thành
phố Pleiku và Kontum.68 Sáng sớm ngày 30-1-1968, tức Mùng Một Tết Mậu
Thân, VC tấn công cùng một lúc 6 thị trấn tại các tỉnh Miền Trung.
Ngay buổi sáng hôm đó, lúc 7 giờ, Tướng Davidson lập tức báo cáo cho
Tướng Westmoreland về các cuộc tấn công này và tiên đoán VC sẽ tái diễn
các cuộc tấn công này trên tất cả các vùng còn lại trên khắp lãnh
thổ VNCH vào tối hôm đó. Tướng Westmoreland hoàn toàn đồng ý và lập
tức ra lệnh báo động và thông báo cho tư lệnh các đơn vị quân Mỹ về
khả năng địch sẽ tấn công lớn vào đêm đó.69
Kết luận: Về phương diện tình báo, đối với cả VNCH
và Hoa Kỳ, việc không tiên đoán được cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân
của phe Cộng Sản, không thể chối cãi được, là một thất bại hết sức
nghiêm trọng.
Về phía VNCH, rõ ràng là các cơ quan tình báo đã
có nắm được một số tin tức khá rõ ràng liên quan đến kế hoạch của
cuộc Tổng Tấn Công này nhưng việc phân tích, nhận định, và đánh giá
tin của các cấp chỉ huy tình báo đã không chính xác, chủ yếu dựa
vào sự lạc quan, tin tưởng là địch tuy có ý đồ nhưng không có khả
năng thực hiện một cuộc tấn công với quy mô trên cả nước như thế. Nhờ
thất bại này, giới tình báo VNCH đã học được một bài học lớn về
quyết tâm của địch và vì vậy đã tiên đoán được rất chính xác đợt
tấn công lần thứ hai vào Sài Gòn của VC vào tháng 5-1968.
Về phía Hoa Kỳ, Hội Ðồng Cố Vấn Tình Báo Hải
Ngoại của Tổng Thống (President’s Foreign Intelligence Advisory Board,
viết tắt là PFIAB) đã thiết lập một ủy ban cấp cao để điều tra về
công tác tình báo trong thời gian trước cuộc tấn công. Báo cáo của
ủy ban, gồm 9 trang, với tựa đề là “Intelligence warning of the Tet
Offensive in South Vietnam,” được hoàn thành trong tháng 4-1968. Trong
phần kết quả điều tra (General Findings), ủy ban đưa ra một số kết
luận như sau: “Although warning had thus been provided, the intensity,
coordination, and timing of the enemy attack were not fully anticipated. … A
second major unexpected element was the number of simultaneous attacks mounted.
… Underlying these specific problems was a more basic one: most commanders and
intelligence officers, at all levels, did not visualize the enemy as capable of
accomplishing his stated goals as they appeared in propaganda and in captured
documents. Prevailing estimates of attrition, infiltration, and local
recruitment, reports of low morale, and a long series of defeats had degraded
our image of the enemy. The general picture presented was an enemy unable to
conduct an offensive of such scope and intensity.” 70 (Xin tạm dịch sang
Việt ngữ như sau: “Mặc dù đã có những báo động, cường độ, phối
hợp, và thời điểm của cuộc tấn công của địch đã không hoàn toàn
được dự đoán trước. … Một yếu tố quan trọng nữa đã không được đoán
trước là con số những cuộc tấn công sẽ được thực hiện cùng một
lúc. … Bên dưới những vấn đề cụ thể đó là một vấn đề căn bản hơn:
phần lớn các cấp chỉ huy và các sĩ quan tình báo, ở tất cả mọi
cấp, đã không hình dung ra được là địch quân có khả năng hoàn thành
được những mục tiêu đề ra mà chúng đã tuyên truyền hay trong các tài
liệu tịch thu được. Những ước lượng về địch quân đang thịnh hành về
các mặt hao mòn, xâm nhập, và tuyển mộ tại địa phương, các báo cáo
về việc xuống tinh thần, và một chuỗi dài những thất trận của họ
đã làm cho chúng ta xem thường địch quân. Hình ảnh tổng quát được
trình bày cho chúng ta là một địch quân không có khả năng thực hiện
một cuộc tấn công với tầm vóc và cường độ như thế.”). Tướng
Davidson, Trưởng J2-MACV trong thời gian Trận Mậu Thân, cho biết ông đồng
ý với kết quả điều tra của ủy ban này, nhưng quan điểm của ông có
khác biệt về mức độ. Ông cho rằng yếu tố quan trọng nhất trong bất
ngờ về chiến thuật không phải là thời điểm của cuộc tấn công, mà
là ở điểm địch quân đã tấn công vào quá nhiều thành phố và vào
cùng một thời điểm.
Về phía phe Cộng sản, họ đã thành công trong việc
tạo được bất ngờ nhờ họ đã rất tích cực trong các công tác bảo
mật và phản gián (đánh lừa đối phương). Phe Cộng sản hiểu rất rõ
là để có thể thành công trong kế hoạch tổng tấn công này họ phải
giữ bí mật tuyệt đối về ngày giờ tấn công và địa điểm tấn công.
Và họ đã làm được tốt công tác này trong cả hai lãnh vực bảo mật
và đánh lừa đối phương. Trong lãnh vực bảo mật, vì tất cả các cấp
chỉ huy quân sự của VC và quân Bắc Việt đều là đảng viên cộng sản,
việc bảo mật không phải là một vấn đề vì họ đã quá quen thuộc với
việc này. Mặc dù vậy, chỉ có cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên mới
được học tập đầy đủ về kế hoạch này. Vì thế, nhân viên Việt-Mỹ
của Chiến địch Phượng Hoàng ở khắp lãnh thổ của VNCH, nhưng chủ yếu
nhắm vào hạ tầng cơ sở của VC, đã không phát hiện được kế hoạch
này. Trong lãnh vực đánh lừa đối phương, phe Cộng sản đã thực hiện
một số công tác quan trọng: 1) dùng chiêu bài hưu chiến trong thời gian
Tết; 2) tấn công một số tiền đồn và căn cứ Việt-Mỹ ở biên giới,
và, đặc biệt đe dọa căn cứ Khe Sanh của TQLC Mỹ; và, 3) dùng đòn
ngoại giao của Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh để cho chính phủ Mỹ nghĩ
và tin rằng họ đã không còn chịu đựng nổi việc oanh tạc liên tục
của Hoa Kỳ và đã muốn thương thuyết.
Trận Ban Mê Thuột (Tháng 3-1975)
Trận Ban Mê Thuột diễn ra chỉ trong khoảng 1 tuần lễ
ngắn ngủi (từ ngày 10-3 đến ngày 18-3-1975) nhưng có tầm vóc hết sức
quan trọng trong cuộc chiến kéo dài gần 20 năm. Nó mở màn cho Chiến
dịch Tây Nguyên của phe Cộng sản trực tiếp đưa đến quyết định tai hại
của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệt thoái khỏi Vùng II và gián
tiếp tạo ra sự sụp đổ của VNCH vào cuối tháng 4-1975.
Sau khi mất tỉnh Phước Long (vào đầu tháng 1-1975, mà
chính quyền VNCH quyết định bỏ luôn, không tìm cách đánh chiếm lại
như đối với tỉnh Quảng Trị trong Mùa Hè 1972), các nhà lãnh đạo quân
sự của VNCH đều nghĩ và tin rằng phe Cộng sản sẽ tấn công mạnh ở
Vùng II, tại Cao Nguyên Trung Phần.
Thật ra, ngay từ trước khi xảy ra trận Phước Long,
vào 2 ngày 9-10 tháng 12-1974, trong cuộc họp của Hội Ðồng An Ninh
Quốc Gia, diễn ra tại Dinh Ðộc Lập dưới sự chủ tọa của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, để thảo luận về kế hoạch phòng thủ cho năm 1975,
Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã tiên đoán là
Cộng sản sẽ không tiến hành một cuộc tổng tấn công như họ đã làm
trong mùa Hè năm 1972, mà chỉ thực hiện những cuộc tấn công có quy mô
lớn, khởi sự tại Vùng II và thời điểm sẽ là trong tháng 3-1975. Tại
Vùng II, ông dự đoán là họ sẽ tập trung các cố gắng ở phía Bắc
của vùng chiến thuật này, cụ thể là Kontum và phía Bắc của Bình
Ðịnh.72 Chính vì vậy, dự kiến Cộng quân sẽ cắt đứt các quốc lộ
chính từ duyên hải lên cao nguyên, từ cuối tháng 1-1975, BTTM đã cho
chuyển lên Pleiku và Kontum một số lượng rất lớn về lương thực và
đạn dược đủ để cho lực lượng phòng thủ Pleiku và Kontum (ước lượng
khoảng 20.000 quân) sử dụng trong 60 ngày mà không cần tiếp tế.73
Bản đồ dưới đây cho thấy rõ sự tập trung phòng thủ
dày đặc của QLVNCH ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku và Kontum) vào đầu
tháng 3-1975 như sau:
Bản Ðồ Bố Trí CÁc Lực Lựợng Phòng Thủ Tại Vùng
II
Vào Ðầu Tháng 3-1975 (Trích từ trang 149 của sách
Black April)
• 3 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bảo vệ Kontum và 1
Liên Ðoàn BÐQ bảo vệ Quốc Lộ 14 (nối liền Kontum và Pleiku; chạy
thẳng xuống phía Nam, đến Ban Mê Thuột)
• 2 Trung Ðoàn 44 và 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh bảo vệ
Pleiku
• 4 Trung Ðoàn 40, 41, 42 và 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh
bảo vệ phía Bắc Bình Ðịnh và các đèo Mang Giang và An Khê trên Quốc
Lộ 19 (nối liền Qui Nhơn–tỉnh lỵ của Bình Ðịnhh–với Kontum)
Ðể bảo vệ Ban Mê Thuột chỉ có Liên Ðoàn 21 BÐQ đóng
ở Buôn Hồ (một thị trấn nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 40 km về hướng
Ðông Bắc), các đơn vị cơ hữu của tỉnh Darlac, và Trung Ðoàn 53 của Sư
Ðoàn 23 Bộ Binh. Theo Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu
Khu Trưởng Darlac, trên thực tế, Trung Ðoàn 53, đóng tại Phi trường
Phụng Dực (cách Ban Mê Thuột khoảng 8 km về hướng Ðông), vào lúc đó
chỉ gồm có bộ chỉ huy Trung Ðoàn và 1 Tiểu Ðoàn mà thôi.74
Khi trận tấn công Ban Mê Thuột nổ ra vào ngày
10-3-1975, lực lượng hai bên được bố trí như trong bản đồ sau đây:
Bản Ðồ Trận Ban Mê Thuột (Trích từ trang 157 của
sách Black April)
Nhìn vào bản đồ bên trên, chúng ta thấy rõ là địch
quân đã tấn công vào Ban Mê Thuột từ 5 phía với các lực lượng như
sau:
• Từ hướng Tây Bắc: với Trung Ðoàn 148, thuộc Sư Ðoàn
316
• Từ hướng Ðông Bắc: với Trung Ðoàn 95B, thuộc Sư
Ðoàn 325
• Từ hướng Ðông Nam: với Trung Ðoàn 149, thuộc Sư Ðoàn
316
• Từ hướng Tây: với Tiểu Ðoàn 4, thuộc Trung Ðoàn 24,
Sư Ðoàn F10
• Từ hướng Nam: với Trung Ðoàn 174, thuộc Sư Ðoàn 316
Như vậy, lực lượng chính tấn công Ban Mê Thuột là Sư
Ðoàn 316, với 3 Trung Ðoàn cơ hữu là 148, 149, và 174, tăng cường thêm
với 1 trung đoàn của Sư Ðoàn 325 và 1 tiểu đoàn của Sư Ðoàn F10, và,
dĩ nhiên, với các đơn vị pháo binh, chiến xa, và đặc công. Sư Ðoàn 316
trước đây chỉ hoạt động tại Lào và từ năm 1974 đã được lệnh quay
trở về Bắc Việt. Sư hiện diện của sư đoàn này tại Miền Nam sẽ là
một bất ngờ cho giới tình báo VNCH.
Sau đây chúng ta cố gắng tìm hiểu sự sắp xếp và
chuẩn bị cho cuộc tấn công của phe Cộng sản và những hoạt động tình
báo của hai bên trước khi cuộc tấn công nổ ra.
Việc phe Cộng sản quyết định tấn công Ban Mê Thuột
thay vì Pleiku một phần lớn là do họ đã nắm được tin tức về buổi
họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia của VNCH vào 2 ngày 9-10 tháng
12-1974. Toàn bộ kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 của Ðại Tướng Cao Văn
Viên trình bày tại buổi họp đã được một điệp viên thuộc loại
“trường kỳ mai phục,” làm việc ngay trong văn phòng của Tướng Viên tại
BTTM QLVNCH, báo cáo đầy đủ về Hà Nội.75,76
Trong khi đó, nội bộ ban tham mưu của Quân Ðoàn II lại
không đồng ý với nhau về mục tiêu tấn công của phe Cộng sản tại Vùng
II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng họ sẽ tấn
công Pleiku, trong khi đó thì Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 (phụ
trách về tình báo) của Quân Ðoàn II thì lại tin là Cộng quân sẽ tấn
công Ban Mê Thuột. Việc Tướng Phú không tin vào nhận định của Ðại Tá
Tiếu có thể có một số lý do như sau: 1) Tướng Phú tin tưởng và dựa
vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của BTTM như đã trình bày trên; 2) Sự
tin tưởng này của Tướng Phú được tăng cường thêm sau buổi họp ngày
18-2-1975 tại Sài Gòn để duyệt lại kế hoạch phòng thủ 1975 này và
chính Tổng Thống Thiệu lưu ý ông việc Cộng quân có thể sẽ đánh
Pleiku; chính vì vậy ông đã một lần nữa, tại buổi họp ngày hôm sau,
19-2-1975, tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku, bác bỏ báo cáo của Ðại
Tá Tiếu về khả năng tấn công Ban Mê Thuột dựa trên những tin tình báo
mới; và 3) Khi nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Tướng Phú không chọn
được những sĩ quan thân tín của mình mà phải chấp nhận những sĩ
quan đang phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Ðoàn (trong đó có Ðại Tá
Tiếu).
Về phía Cộng quân, dựa vào kế hoạch phòng thủ năm
1975 của VNCH mà họ đã nắm được cộng thêm việc bố trí lực lượng
phòng thủ dày đặc của Quân Ðoàn II ở phía Bắc của Vùng II, họ thấy
rõ là Tướng Phú tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku. Do đó họ đã tập
trung cố gắng làm mọi động tác giả để đánh lừa Tướng Phú, làm cho
ông tin rằng ông đã tính toán đúng là họ sẽ đánh Pleiku chứ không
phải Ban Mê Thuột.
Nhìn chung, phe Cộng sản đã lại áp dụng phương thức
mà họ đã từng sử dụng trong lúc chuẩn bị trận Tổng Tấn Công Tết
Mậu Thân để đạt được mục tiêu này. Phương thức đó gồm 2 phần: 1) Bảo
mật tối đa về mục tiêu thật của trận tấn công là Ban Mê Thuột; và,
2) Thực hiện môt số động tác giả để đánh lừa đối phương khiến cho
đối phương tin là mục tiêu thật của trận tấn công sẽ là Pleiku-Kontum.
Bảo mật:
Về phương diện bảo mật, rút kinh nghiệm từ trận Mậu
Thân, mục tiêu Ban Mê Thuột của trận tấn công được giữ kín tối đa.
Các tư lệnh tại mặt trận chỉ được biết vào cuối tháng 1-1975, và tư
lệnh các đơn vị sẽ tham gia tấn công chỉ được thông báo từ đầu tháng
2-1975. Hà Nội cũng quyết định giữ nguyên các đơn vị đang có mặt ở
phía Bắc của Vùng II (Pleiku-Kontum) là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 3, Sư
Ðoàn F10 và 2 Trung Ðoàn độc lập 25 và 95A, và ra lệnh cho các đơn vị
đó tăng cường các hoạt động đe dọa vùng này. Trong khi đó, các đơn
vị sẽ tham gia tấn công Ban Mê Thuột đều là các đơn vị trừ bị đang
đóng quân tại Lào hay tại Bắc Việt được bí mật di chuyển vào các
vị trí chung quanh Ban Mê Thuột để chuẩn bị tấn công. Sư Ðoàn 316, đơn
vị chủ lực của trận tấn công vào Ban Mê Thuột, trước kia chỉ hoạt
động tại Lào, sau đó được điều dộng trở về Miền Bắc, đã nhận được
lệnh di chuyển vào Nam vào ngày 15-1-1975, nhưng để lại bộ phận
truyền tin tại Miền Bắc để tiếp tục gửi đi các báo cáo nhằm đánh
lừa các đơn vị SIGINT của QLVNCH.77
Ðánh lừa:
Ðầu tháng 2-1975, một đơn vị của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh
QLVNCH bắt được 1 binh sĩ Bắc Việt tại một địa điểm ở phía Tây tỉnh
Bình Ðịnh gần đèo An Khê. Qua thẩm vấn được biết binh sĩ này đã
tháp tùng viên tư lệnh của Sư Ðoàn 3 Bắc Việt đi thám sát đèo An Khê.
Trong mình binh sĩ này có giữ một bản đồ ghi rõ các địa điểm mà Sư
Ðoàn 3 dự định sẽ đóng chốt để cắt đứt Quốc Lộ 19 là con đường
huyết mạch nối liền Qui Nhơn (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Ðịnh) với
Pleiku. Cùng lúc đó, Phòng 2 của Quân Ðoàn II cũng bắt được tin Sư
Ðoàn 968 Bắc Việt đang đóng tại Lào đã di chuyển sang lãnh thổ VNCH.
Tướng Phú tin rằng Cộng quân đang chuẩn bị tấn công Pleiku, và ông đã
ra lệnh cho Trung Ðoàn 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đến trấn giữ đèo An
Khê.78 Lý do Trung Ðoàn 47 được giao cho nhiệm vụ này vì vị sĩ quan
Trung Ðoàn Trưởng, Trung Tá Lê Cầu, là người rất quen thuộc địa hình
vùng đèo An Khê vì ông đã từng chiến đấu tại đây trong trận Tổng Tấn
Công Mùa Hè 1972. Trong suốt tháng 2-1975, các đơn vị Cộng quân hiện
diện trong vùng liên tục pháo kích Kontum và Pleiku cũng như đánh phá
các chốt bảo vệ đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 của Trung Ðoàn 47.79 Các
đơn vi này do 2 Sư Ðoàn F10 và 320 để lại để thực hiện kế hoạch nghi
binh, còn toàn bộ 2 sư đoàn này đã di chuyển xuống phía Nam để chuẩn
bị tấn công Ban Mê Thuột. Tất cả những hoạt động này của địch làm
cho Tướng Phú càng thêm tin là Pleiku sẽ là mục tiêu chính của cuộc
tấn công sắp tới của Cộng quân.
Giữa tháng 2-1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho
ký giả Nguyễn Tú của báo Chính Luận, Tướng Phú đã nói ra tất cả
những gì ông suy nghĩ và phân tích về cuộc tấn công sắp tới của
địch. Ṓng tin rằng địch sẽ sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn để
cắt đứt Quốc Lộ 19 trước khi tấn công Pleiku.80
Ngày 18-2-1975, Tướng Phú về Sài Gòn dự phiên họp
với các tướng tư lệnh quân đoàn do Tổng Thống Thiệu triệu tập để
duyệt lại kế hoạch phòng thủ cho năm 1975. Tại phiên họp này, chính
Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng địch có thể tấn công Pleiku
ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã
nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của địch quân.81 Do đó, ông
đã một lần nữa bác bỏ nhận định của Ðại Tá Tiếu về khả năng địch
sẽ tấn công Ban Mê Thuột tại phiên họp của ban tham mưu Quân Ðoàn II ở
Pleiku vào ngày hôm sau, 19-2-1975.
Ðầu tháng 3-1975, trước một số tin tình báo về các
hoạt động của địch chung quanh Ban Mê Thuột làm Tướng Phú có phần nao
núng. Ngày 4-3-1975, ông ra lệnh cho Trung Ðoàn 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh di chuyển về Ban Mê Thuột. Việc di chuyển này sắp bắt đầu thì
vào lúc 2 giờ trưa cùng ngày, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại Pleiku bị
địch quân pháo kích, Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân
này.82 Cùng ngày địch quân tấn công dữ dội vào các đơn vị của Trung
Ðoàn 47 và cắt đứt Quốc Lộ 19 tại hai nơi. Tướng Phú tin chắc là
địch quân đã bắt đầu chiến dịch tấn công vào Pleiku.
Việc chuyển quân của Sư Ðoàn 316 từ Bắc vào Nam cũng
như của Sư Ðoàn 968 từ Lào sang Việt Nam, mặc dù được ngụy trang rất
kỹ như đã trình bày bên trên, sau cùng vẫn bị SIGINT của QLVNCH phát
hiện. Sau khi phân tích tín hiệu, và đánh giá, Phòng 7 BTTM QLVNCH
nhận định là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Ngày 7-3-1975, 3 ngày
trước khi trận Ban Mê Thuột nổ ra, Chuẩn Tướng Phạm Hữu Nhơn, Trưởng
Phòng 7, BTTM QLVNCH, cùng với Tom Glenn là Trưởng đơn vị của Cơ Quan An
Ninh Quốc Gia (National Security Agency – NSA) của Hoa Kỳ tại Việt Nam,
đã bay lên Pleiku để đích thân báo cho Thiếu Tướng Phú về nhận định
của Phòng 7 là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột (cuộc họp này có
mặt cả Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân Ðoàn 2) nhưng
Tướng Phú vẫn không tin.83 Ngay cả vào lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-1975,
sau khi Thuần Mẫn, thuộc tỉnh Phú Bổn, đã mất, và Ðức Lập, thuộc
tỉnh Quảng Ðức cũng đã bị chiếm, ông bay xuống Ban Mê Thuột để họp
với các đơn vị trưởng tại đây để duyệt xét tình hình, Tướng Phú
vẫn còn tiếp tục nghĩ và tin là tất cả chỉ là nghi binh. Ông vẫn
chờ cuộc tấn công vào Pleiku, một cuộc tấn công chẳng bao giờ xảy ra.
Sáng sớm ngày hôm sau, 10-3-1975, trận tấn công vào Ban Mê Thuột nổ ra
và chỉ trong 2 ngày toàn bộ thị xã này đã lọt vào tay Cộng quân.
Kết luận: QLVNCH thua trận Ban Mê Thuột không phải vì
tình báo yếu kém mà rõ ràng là do Tướng Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II
bị định kiến quá nặng nề, Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, với trách nhiệm
phải bảo vệ một lãnh thổ quá rộng lớn như thế (gồm tất cả 12
tỉnh, 7 tỉnh cao nguyên là Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Ðức,
Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và 5 tỉnh duyên hải là Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận), thì Quân Ðoàn II, chỉ với 2 sư đoàn
bộ binh (22 và 23) cùng một số liên đoàn BÐQ, cũng khó mà đương đầu
nổi với một lực lương địch quân đông gấp 3,4 lần với các Sư Ðoàn 2,
3, F10, 968, 316, 320, và 325, và 1 số trung đoàn độc lập. Một bằng
chứng rõ ràng là việc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột đã không thể
thực hiện được. Và đó là một trong những lý do đưa đến quyết định
triệt thoái Quân Ðoàn II rất tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
tại phiên họp định mệnh ngày 14-3-1975 tại Cam Ranh.
Thay Lời Kết
Không thể phủ nhận được vai trò hết sức quan trọng
của tình báo trong Chiến Tranh Việt Nam, cũng như trong bất cứ cuộc
chiến tranh nào. Và vì thế, dĩ nhiên, các quân đội của các phe lâm
chiến đều phải tổ chức một hệ thống tình báo thật đầy đủ và tinh
vi để có thể nắm được ý đồ và mục tiêu của đối phương cũng như che
dấu và đánh lừa đối phương về ý đồ, mục tiêu của mình. Trong Chiến
Tranh Việt Nam, VNCH và Ðồng Minh Hoa Kỳ đã tổ chức được một hệ
thống tình báo rất hữu hiệu. Rất tiếc, trong một số trận đánh quan
trọng, các cấp chỉ huy tình báo và quân sự của VNCH và Hoa Kỳ, vì
định kiến quá nặng nề, đã không tin tưởng vào chính hệ thống tình
báo của mình, và vì thế đã thất bại, không nắm được ý đồ và mục
đích của địch quân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét