Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

Tình Báo Trong Chiến Tranh Việt Nam (tiếp theo)


Phần 2: Hệ Thống Tình Báo Của Phe Cộng Sản

Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, tại Bắc Việt, cơ quan tình báo chiến lược là Cục Tình Báo thuộc Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam. Cục Tình Báo, hay còn gọi là Cục 2, được thành lập ngày 10-6-1957 do việc hợp nhất 2 cơ quan là Nha Liên Lạc (thuộc Phủ Thủ Tướng, Giám Ðốc là ông Trần Hiệu) và Cục Quân Báo (Bộ Quốc Phòng), và vị Cục Trưởng đầu tiên cũng chính là ông Trần Hiệu (năm 1958, ông Trần Hiệu được phong quân hàm Ðại Tá).41,42 Về phía dân sự, sau sự hợp nhất này, Bắc Việt không còn có một cơ quan trung ương về tình báo nữa. Công tác tình báo dân sự được giao cho Bộ Công An với mạng lưới nhân viên dày đặc từ trung ương xuống đến tận các đơn vị cấp nhỏ nhất tại địa phương như Phường, Khóm, Xã, Ấp. Chính nhờ mạng lưới này, Bắc Việt đã ngăn chận được sự xâm nhập của các toán điệp viên của VNCH được gửi ra từ Miền Nam.

Cục 2 có đầy đủ các Phòng, Ban chuyên môn phụ trách tất cả các lãnh vực chuyên môn về tình báo như thu thập tin (bao gồm cà tình báo nhân sự –HUMINT—và tình báo tín hiệu –SIGINT–, phân tích và đánh giá tin, truyền và thông báo tin, và cả phản gián.

Cụ thể, Cục 2 gồm có tất cả 6 Khối với trách nhiệm như sau:

• Khối Hành Chánh: lo về nhân viên, lý lịch, thăng thưởng, kỷ luật, vv
• Khối Kỹ Thuật: thu thập tất cả các loại tài liệu của VNCH như giấy căn cước, con dấu, chữ ký để làm căn cước giả, cũng như cung cấp mọi vật liệu và máy móc cần thiết cho các điệp viên xâm nhập vào Miền Nam
• Khối Truyền Tin: điều hành các hệ thống truyền tin giữa Cục 2 với các đơn vị phụ thuộc, với các cơ quan tình báo chiến lược khác, và với các điệp viên do Cục 2 điều động ở Miền Nam
• Khối Huấn Luyện: phụ trách huấn luyện nhân viên trong nước cũng như gửi đi học tại Liên Xô và Trung Quốc từ 6 tháng đến 2 năm
• Khối Bảo Vệ: lo mảng công tác phản gián, theo dõi các đối tượng tình nghi phản động, và ngăn chận người của VNCH xâm nhập và phá hoại
• Khối Thu Thập: được tổ chức thành nhiều Ban; mỗi Ban chịu trách nhiệm thu thập tin tại một quân khu ở Miền Bắc; đặc biệt 3 Ban quan trọng nhứt chịu trách nhiệm tại 3 vùng Chiến trường C (VNCH), B (Lào), và C (Kampuchia); có cả 1 Ban chịu trách nhiệm về Hoa Kỳ

Tại Miền Nam, vì Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (hay Việt Cộng) chỉ là một công cụ của Bắc Việt, mọi việc quan trọng về chính trị và quân sự đều do Trung Ương Cục Miền Nam quyết định. Trung Ương Cục Miền Nam (sau đây sẽ viết tắt là TUC; tài liệu của Mỹ thường gọi là COSVN = Central Office for South Vietnam) là cơ quan do Ðảng Lao Ðộng Việt Nam (tức Ðảng Cộng sản Việt Nam tạm thời đổi tên vào năm 1951) thành lập năm 1961 để thay cho Xứ Ủy Nam Bộ, với nhiệm vụ tiến hành cuộc nổi dậy tại Miền Nam với các Bí Thư liên tiếp sau đây: Nguyễn Văn Linh (1961-1964), Nguyễn Chí Thanh (1964-1967), và Phạm Hùng (1967-1975), tất cả đều là Ủy Viên Bộ Chính Trị của Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.

Về mặt công tác tình báo, TUC, thật ra, chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi lãnh thổ của Vùng III và Vùng IV của VNCH mà thôi (tức là 3 Quân Khu 7, 8, và 9 của Việt Cộng). Công tác tình báo tại các phần lãnh thổ còn lại của VNCH (tức là Vùng I và Vùng II) vẫn thuộc sự điều khiển của Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam (xuyên qua Cục Tình Báo, tức là Cục 2). Do đó, hệ thống tổ chức tình báo của phe Cộng sản có sơ đồ tổ chức như sau: 


SoDo_006.jpg



Ghi chú:

• Chiến trường B3 là mật ngữ của phe Cộng sản dùng để chỉ vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH
• Quân Khu T.Thiên-Huế: gồm các tỉnh Quảng Trị, ThừaThiên và Thành phố Huế
• Quân Khu 5: gồm các tỉnh duyên hải Trung và Nam Trung Phần là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hòa
• Quân Khu 6: gồm các tỉnh duyên hải Nam Trung Phần là Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy và các tỉnh phía Nam Cao Nguyên Trung Phần là Darlac, Quảng Ðức, Tuyên Ðức và Lâm Ðồng
• Quân Khu 7: gồm các tỉnh Miền Ðông Nam Bộ
• Quân Khu 8: gồm các tỉnh Tiền Giang
• Quân Khu 9: gồm các tỉnh Hậu Giang, Miền Tây Nam Bộ

Với hệ thống tổ chức như trong sơ đồ bên trên, việc cung cấp tin tức tình báo cho các sư đoàn Bắc Việt đã xâm nhập vào Miền Nam và hoạt động trong Vùng I và Vùng II Chiến Thuật của VNCH hoàn toàn do Cục 2 đảm trách.

Trong khu vực trách nhiệm của mình, tức là 2 Vùng III và Vùng IV của VNCH, TUC có một bộ phận chuyên lo công tác an ninh và tình báo gọi là Cục An Ninh gồm có 3 bộ phận với các nhiệm vụ chính như sau: 45

• Ban Nội thám: với bí danh K-35, có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ an ninh cho mật khu; có quyền theo dõi, bắt giam, hỏi cung, điều tra, giam giữ cán bộ chiến sĩ và thường dân; ngăn chận sự xâm nhập của các điệp viên của VNCH
• Ban Ngoại thám: có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo qua hệ thống điệp viên và nội tuyến; cung cấp tất cả những dụng cụ, vũ khí cần thiết cho các điệp viên và nội tuyến
• Ban Bảo vệ: bảo vệ yếu nhân, lãnh tụ của TUC và Mặt Trận; đơn vị được chỉ định làm công tác này là Trung Đoàn Bảo Vệ 180 gồm 2 Tiểu Ðoàn D-1 và D-2; D-1 phụ trách bảo vệ lãnh tụ và cơ sở; D-2 phụ trách bảo vệ ngoại vi.

Ngoài các tổ chức, cơ quan, đơn vị chính thức như vừa trình bày bên trên, phe Cộng sản còn có được tai mắt trong dân chúng qua cái gọi là “hệ thống tình báo nhân dân” ở khắp nơi trong lãnh thổ của VNCH, điều mà VNCH không làm được tại Miền Bắc.

Hoạt Ðộng Xâm Nhập Của Hai Bên

Ngoài các hoạt động công khai của các cơ quan tình báo vừa kể trên, cả VNCH và Bắc Việt đều có thực hiện một số điệp vụ bí mật qua các công tác gửi người, cài người, kể cả trường kỳ mai phục, vào lãnh thổ, cơ quan, tổ chức của cả hai bên.

VNCH Gửi Kiệt Kích Xâm Nhập Bắc Việt

Trong thời gian 300 ngày chuyển tiếp của việc thi hành Hiệp Ðịnh Genève 1954, một tổ CIA, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Edward Lansdale, đã tuyển mộ (từ các đảng viên của 2 chính đảng có chủ trương chống Cộng sản là Ðại Việt và Quốc Dân Ðảng), huấn luyện và gài đặt lại một số tổ tình báo ở Miền Bắc. Kế hoạch “trường kỳ mai phục” này của CIA tương đối thành công vì lúc đó Bắc Việt chưa kiện toàn bộ máy an ninh của họ. Các tổ tình báo này hoạt động được hơn một thập niên nhưng sau cùng cũng bị lộ, bị bắt giam, và đưa ra tòa xét xử. Vụ án xét xử 10 gián điệp (tất cả đều là đảng viên Quốc Dân Ðảng, với 2 bản án tử hình) tại tòa án Hải Phòng vào tháng 4-1965 đã làm chấn động Miền Bắc, như chúng ta thấy trong hình sau đây: 46


Anh_001

Tòa Án Hải Phòng Xét Xử Vụ Án Gián Ðiệp Tháng 4-1965 (Xuất xứ của ảnh: Lấy từ sách “Spies and Commandos,” tr. 13)

Trong thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực về tài chánh và kỹ thuật của CIA, đã gửi nhiều điệp viên và các toán biệt kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác về thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại. Cơ quan của VNCH hợp tác với CIA trong kế hoạch này là một đơn vị tình báo lúc đầu trực thuộc Phủ Tổng Thống dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Quang Tung (sau thăng lên cấp Ðại Tá, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Ðặc Biệt), với tên gọi thay đổi nhiều lần: Phòng Liên Lạc Phủ Tổng Thống, Phòng 45, Sở Bắc, Sở Khai Thác Ðịa Hình. Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình bị giải tán, và ngày 12-2-1965, Nha Kỹ Thuật được thành lập để đảm nhận công tác tình báo này và được đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.

Lúc đầu, kế hoạch này chỉ gửi từng điệp viên đơn độc ra nằm vùng tại Miền Bắc (trong ngữ vựng của CIA gọi là các “singletons”). Ðiệp viên đầu tiên được gửi ra Miền Bắc trong kế hoạch này là Phạm Chuyên, một cựu đảng viên Cộng Sản của tỉnh bộ Quảng Ninh, đã từ bỏ đảng và di cư vào Nam. Chuyên được huấn luyện rất kỹ trong hơn 1 năm và sau đó được bí mật đưa ra ém ở Cẩm Phả, trong vùng Vịnh Hạ Long, vào tháng 4-1961, với bí danh là ARES. Nhưng chỉ được hơn 2 tháng thì ARES đã bị bắt. ARES đã hàng địch, trở thành công cụ của địch, và gửi nhiều điện văn về để lừa CIA. Lúc đó CIA vẫn chưa biết sự phản bội của ARES, vẫn tiếp tục chương trình ”singletons” này. Kết quả là, cũng giống như ARES, các “singletons” kế tiếp, với các bí danh HIRONDELLE, HERO, TRITON, ATHENA, đều “biến mất” hết một cách bí mật. Sang năm 1962, tuy vẫn chưa nghi ngờ ARES, CIA đã bắt đầu không còn tin tưởng vào hiệu quả của chương trình “singletons” nữa và bắt đầu chuyển sang chương trình cho các toán biệt kích, từ 3 đến 8 người, nhảy dù xuống Miền Bắc. Riêng về “singleton” ARES, thì từ 1966 CIA đã bắt đầu nghi ngờ và khi họ bố trí cho ARES “trở ra” (exfiltrate) thì ARES không làm theo chỉ thị; lúc đó CIA mới biết chắc ARES đã trở thành công cụ của tình báo BẮc Việt và chấm dứt liên hệ với ARES. Tuy nhiên tình báo Bắc Việt vẫn tiếp tục sử dụng ARES và ARES vẫn tiếp tục gừi điện về cho mãi đến tận năm 1968.47

Chương trình đưa biệt kích ra Miền Bắc chính thức bắt đầu bằng NSAM 28 (NSAM = National Security Action Memorandum No. 28, ngày 9-3-1961), theo đó Tổng Thống John F. Kennedy (1961-1963) ra chỉ thị cho CIA phát động chiến tranh du kích tại Miền Bắc. Trong tháng 4-1961 xảy ra vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ở Cuba do CIA tổ chức bị thất bại nặng nề, Tổng Thống Kennedy mất tin tưởng vào khả năng tổ chức những công tác bán quân sự bí mật của CIA. Cuối tháng 6-1961, một loạt NSAM ra đời (NSAM 55, 56 và 57, cùng ngày 28-6-1961) nhằm chuyển giao loại công tác đó qua cho Bộ Quốc Phòng, với CIA trong vai trò yểm trợ mà thôi.

CIA, thật ra, đã chuẩn bị từ trước. Họ đã tuyển người (tất cả đều là người gốc Miền Bắc), huấn luyện (tại căn cứ huấn luyện ở Long Thành, về sau trở thành Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng) và chuẩn bị cho chuyến xuất phát đầu tiên vào ngày 27-5-1961. Toán biệt kích gồm 4 người này được đặt bí danh là CASTOR, với người chỉ huy là Trung sĩ Hà Văn Chấp, cùng 3 toán viên là Ðinh Văn, Quách Thưởng và Phạm Công Thương,48được thả xuống vùng đồi 828, thuộc tỉnh Sơn La. Người phi công lái chiếc máy bay C-47 chở toán CASTOR đó chính là Tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó ông còn mang lon Thiếu Tá và là Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn Vận Tải của Không Quân VNCH). Toán CASTOR không tồn tại được lâu, họ bị Công An Vũ Trang của Bắc Việt phát hiện, bao vây và đã phải đầu hàng sau 3 ngày. Cũng như với vụ ARES, Bắc Việt cũng giữ kín vụ bắt được toán CASTOR. CIA hoàn toàn không nghi ngờ gì cả và tiếp tục gửi toán thứ nhì gồm 3 người với bí danh là ECHO vào ngày 2-6-1961. Còn tệ hơn toán CASTOR, cả toán ECHO 3 người này đều bị bắt vào ngay hôm sau. CIA không biết là toán ECHO đã bị địch bắt và 12 ngày sau lại gửi toán thứ ba, bí danh DIDO, gồm 4 người thuộc sắc dân thiểu số Thái Ðen, vào Lai Châu. Lần này, phi công của chiếc máy may C-47 vẫn là Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ. Toán DIDO cũng không may mắn hơn toán ECHO. Họ bị bắt hết tại biên giới Việt-Lào vào khoảng 10 ngày sau. Khoảng hơn một tháng sau ngày toán CASTOR nhảy xuống Sơn La, ngày 29-6-1961, đài tiếp vận BUGS của CIA ở Phi Luật Tân nhận được điện của CASTOR. Không biết CASTOR đã bị bắt và hàng địch, CIA rất vui mừng và thông báo cho CASTOR biết 4 ngày sau sẽ gửi đồ tiếp tế cho CASTOR. Theo kế hoạch, chuyến bay này sẽ lại do Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ điều khiển nhưng vào giờ chót đã có sự thay đổi và phi công là Trung Úy Phan Thanh Vân. Chiếc C-47 này đã bị đơn vị phòng không của Bắc Việt bắn hạ khi bay ngang không phận của Hòn Né, gần bờ biển của tỉnh Ninh Bình, và rớt trong một khu đồn điền cách bờ biển khoảng 20 km. Tất cả phi hành đoàn đều bị thương, sau đó có 4 người chết vì vết thương quá năng, 3 người còn sống bị đưa ra tòa xét xử vào tháng 11-1961. Ðể tiếp tục đánh lừa CIA và cơ quan tình báo của VNCH về CASTOR, Bắc Việt đã dàn cảnh cho 3 người này khai trước tòa là phi vụ của họ là để tiếp tế cho 1 toán biệt kích trong vùng tỉnh Hòa Bình (chớ không phải cho toán CASTOR ở Sơn La). Phòng 45 của Trung Tá Lê Quang Tung và CIA tin là toán CASTOR vẫn còn là phe ta, chương trình cài biệt kích này đã thành công nên lại tiếp tục gửi các toán biệt kích ra Bắc. Toán biệt kích kế tiếp mang bí danh là EUROPA và gồm 5 người gốc Mường. Lần này, phi cơ được sử dụng là loại C-54, phi công vẫn là ông Kỳ lúc này đã thăng lên cấp Trung Tá. Chiếc C-54 này bay thẳng từ Sài Gòn (không cần phải ghé để được tiếp nhiên liệu như chiếc C-47 của các lần trước) ra Bắc và thả toán EUROPA xuống vùng Hòa Bình. Ngày hôm sau cả toán EUROPA 5 người Mường này đều bị bắt. Lại dùng phương thức cũ, tình báo Bắc Việt lại để cho người của toán EUROPA gửi điện về. CIA và Phòng 45 lại tin là thêm một phi vụ thành công nữa.49 Việc đưa biệt kích ra Bắc lại được CIA tiếp tục với các toán ATLAS (tháng 3-1962), REMUS (tháng 4-1962), TOURBILLON (tháng 5-1962), và EROS (tháng 6-1962), và, cũng như các toán trước, các toán này đều bị Công An Vũ Trang của Miền Bắc phát hiện, truy lùng và bắt giữ hết.

Kể từ mùa Hè năm 1962, thực thi các NSAM 55, 56 và 57, Chính phủ Hoa Kỳ giao lại công tác này cho Bộ Quốc Phòng, và CIA chỉ còn giữ vai trò yểm trợ mà thôi. Phái bộ quân sự Mỹ tại VN, MACV (thành lập ngày 8-2-1962 thay thế cho MAAG = Military Assistance Advisory Group) cho thành lập đơn vị SOG (lúc đầu mang tên là Special Operations Group, sau đổi tên lại là Studies and Observations Group). Thành viên của SOG hoàn toàn là người tình nguyện, phần lớn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt của quân đội Mỹ. Trong thời gian 1962-1963, VNCH trải qua nhiều xáo trộn chính trị nghiêm trọng. Vì những xáo trộn chính trị này của VNCH, nên mãi đến tháng 4-1964, SOG mới triển khai hoạt động với các đơn vị của cơ quan tình báo mới của QLVNCH là Nha Kỹ Thuật thuộc Bộ Tổng Tham Mưu.

Vào đầu năm 1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình được cải danh thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB) và vẫn do Ðại Tá Lê Quang Tung chỉ huy. Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, Lực Lượng Ðặc Biệt không còn đảm nhận công tác tình báo nữa. Sở Bắc (Phòng 45 đổi tên) được tách ra khỏi LLÐB, và cải danh thành Sở Khai Thác và trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM). Sau đó Sở Khai Thác được đổi tên một lần nữa thành Sở Kỹ Thuật, và ngày 12-2-1965 được nâng cấp lên thành Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM,50 với sơ đồ tổ chức như sau:

(Sơ đồ tổ chức này được trình bày dựa trên thông tin lấy ra từ tài liệu trực tuyến Nha Kỹ Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại địa chỉ Internet )


SoDo_007.jpg


Các công tác của Nha Kỹ Thuật được phân chia cho các cơn vị trực thuộc như sau:
• Sở Công Tác: đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng; nhiệm vụ của các Ðoàn thuộc Sở này là xâm nhập bằng đường hàng không hay đường bộ vào lòng địch tại Miền Bắc hay các vùng biên giới với Lào và Kampuchia.
• Sở Liên Lạc: đóng tại Sài Gòn; nhiệm vụ của các Chiến Ðoàn (Biệt Kích Lôi Hổ) thuộc Sở này là xâm nhập vào hậu tuyến của địch trong lãnh thổ của VNCH từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam
• Sở Phòng Vệ Duyên Hải: đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng; Lực Lượng Hải Tuần có trách nhiệm tuần tra, bảo vệ bờ biển, chận bắt tàu bè của địch xâm nhập vùng biển của VNCH; Lực Lượng Biệt Hải có nhiệm vụ huấn luyện và đưa người nhái xâm nhập Miền Bắc với phương tiện của Hải Tuần
• Sở Tâm Lý Chiến: đóng tại Sài Gòn; với nhiệm vụ tổ chức và điều hành hai đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do và Gươm Thiêng Ái Quốc hướng về Miền Bắc.
• Sở Không Yểm: đóng tại Sài Gòn; có nhiệm vụ phối hợp các phi đoàn của Không Quân VNCH trong việc thả, rút, liên lạc và hướng dẫn các toán kiệt kích xâm nhập Miền Bắc và hậu phương địch.
• Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng: đóng tại Long Thành; có nhiệm vụ huấn luyện cho các toán biệt kích.
Sự thành lập Nha Kỹ Thuật của BTTM với đầy đủ tất cả các đơn vị và phương tiện cần thiết cho việc xâm nhập Miền Bắc, với sự yểm trợ tích cực của SOG về phía Hoa Kỳ, thật ra không cải thiện được hiệu quả của công tác này.

Ngay từ cuối năm 1963, vào ngày 20 tháng 11, một cuộc họp hết sức quan trọng đã diễn ra tại Honolulu, Hawaii, với các giới chức cao cấp nhứt của chính phủ Mỹ, gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Kennedy McGeorge Bundy, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINCPAC = Commander-In-Chief, Pacific) Ðô Ðốc Harry D. Felt, Giám Ðốc CIA John McCone, Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge và Tư Lệnh MACV Ðại Tướng Paul Harkins. Cuộc họp có mục đích thảo luận về việc chuyển giao công tác xâm nhập người của VNCH ra Miền Bắc từ CIA sang cho MACV-SOG. William Colby, cựu Trưởng Trạm CIA tại Sài Gòn, người từng chủ trương, cổ vũ, và đích thân thực hiện công tác này tại VNCH, lúc đó đã thăng cấp và đảm nhiệm chức vụ Trưởng Phân Bộ Viễn Ðông (Far Eastern Division Chief) của CIA, đã được Giám Ðốc CIA McCone chỉ định thuyết trình về công tác gửi người xâm nhập Miền Bắc. Ông đã tỏ ra rất bi quan khi ông cho biết phần lớn các toán biệt kích gửi ra Miền Bắc đều “đã bị bắt hay đã bị giết chết.” Trong phần kết luận, ông nói trắng ra như sau: “It isn’t working, and it won’t work any better with the military in charge.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chuyện đó không làm được, và cũng sẽ không làm được gì khá hơn với quân đội lãnh trách nhiệm”).51

Dĩ nhiên, lời cảnh báo này của Colby không được nghe theo và SOG cùng với các đơn vị của Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM QLVNCH vẫn tiếp tục việc gửi các toán biệt kích xâm nhập ra Miền Bắc, với kết quả là “đem con bỏ chợ.” Tất cả biệt kích đều bị bắt, bị tra tấn tàn bạo, và bị giam cầm trong các trại lao cải ở Miền Bắc trong hàng chục năm trời. Gia đình của một số biệt kích quân được báo tin là họ đã tử trận, một số được lãnh tiền bồi thường tử tuất. CIA và quân đội Mỹ đã hoàn toàn bỏ rơi họ. Dân quân VNCH hoàn toàn không biết gì hết về số phận của những người lính biệt kích này. Mãi đến sau năm 1975, khi một số sĩ quan QLVNCH đi học tập cải tạo ở Miền Bắc được thả về, kể lại chuyện được gặp các biệt kích quân đó trong các trại cải tạo, dân chúng Miền Nam mới có những thông tin đầu tiên về số phận của các biệt kích quân này.

Chương trình gửi người xâm nhập Miền Bắc để thực hiện các công tác tình báo của VNCH, trong một thời gian khá dài, với những chi phí rất tốn kém, đã thất bại hoàn toàn. Có 2 lý do chính cho sự thất bại này: 1) VNCH không có được một hạ tầng cơ sở tại Miền Bắc để hỗ trợ cho loại công tác này; và, 2) Hệ thống an ninh của Miền Bắc quá chặt chẽ khiến cho các biệt kích rất dễ bị phát hiện, truy lùng và bắt giữ.

Miền Bắc Cài Người Hoạt Ðộng Tại Miền Nam

So với VNCH, Miền Bắc có nhiều thuận lợi hơn trong việc cài người ở Miền Nam. Có 2 lý do chính cho việc này: 1) Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, 1945-1954, Việt Minh nắm trọn quyền điều khiển Kháng Chiến; đảng viên Cộng sản có mặt khắp nơi trong Miền Nam; khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, trong việc tập kết quân đội tại Miền Nam để chuyển ra Bắc, một số khá lớn đảng viên Cộng sản đã nhận được lệnh ở lại Miền Nam; và 2) Phong trào di cư của người Bắc vào Nam trong thời gian 100 ngày sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết vào tháng 7-1954 tạo cơ hội quá tốt cho Hà Nội cài người. Ðó là nguồn nhân lực rất quan trọng cho Cộng sản sử dụng trong việc cài người trong dân chúng cũng như bộ máy chính quyền (cả chính trị và quân sự) của VNCH. Phần lớn những người này đã có mặt, sinh sống, và làm việc như mọi người dân khác của Miền Nam, ngay cả trước khi VNCH được thành lập, nên họ đều có một vỏ bọc rất tốt, giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao” trong guồng máy chánh trị và quân sự của VNCH. Sau đây là một vài nhận vật thật nổi tiếng trong số những người này.

Trong số những người theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp nhưng đã không tập kết ra Bắc mà ở lại Miền Nam nổi tiếng nhất là Phạm Ngọc Thảo.52 Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, ông đã xâm nhập được vào quân đội Miền Nam, được chế độ Ngô Ðình Diệm tin dùng và bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) lúc ông đang mang cấp Trung Tá. Sau tháng 11-1963, ông thăng lên cấp Ðại Tá và đã tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 19-2-1965 chống Tướng Nguyễn Khánh nhưng thất bại vì sự chống đối của các tướng trẻ. Sau vụ này ông bỏ trốn nhưng bị bắt và bị giết chết. Mãi đến năm 1987, phe Cộng Sản mới công khai xác nhận ông Thảo là người của họ, truy tặng ông cấp bậc Ðại Tá của Quân Ðội Nhân Dân và danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân.

 Phạm Ngọc Thảo
 Ảnh: Phạm Ngọc Thảo 1965

Trong số những người Cộng sản lợi dụng phong trào di cư năm 1954 để vào Nam hoạt động nổi tiếng nhất phải kể đến Vũ Ngọc Nhạ, đảng viên Cộng sản từ năm 1947. Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại Thái Bình, Bắc Việt, xuất thân từ một gia đình theo Công giáo, sinh sống trong vùng Phát Diệm nổi tiếng chống Cộng dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Lê Hữu Từ, bản thân có theo học mấy năm ở một chủng viện, và đã theo làn sóng người Công giáo di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, và sau đó lại được Linh Mục Hoàng Quỳnh đỡ đầu, Vũ Ngọc Nhạ đã thoát được không bị kết án sau khi bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung của Ngô Ðình Cẩn phát hiện và bắt giam tại Huế vào tháng 12-1958. Một thời gian sau, cũng lại với cái vỏ bọc Công giáo đó, cùng với bài viết vào cuối năm 1959 “Bốn nguy cơ đe dọa chế độ” dự đoán sẽ có đảo chánh và sau đó có đảo chánh xảy ra thật sự vào ngày 11-11-1960, Nhạ đã được Ngô Ðình Cẩn tin dùng và sau đó giới thiệu cho hai người anh là Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Cố Vấn Ngô Ðình Nhu. Nhạ được hai anh em họ Ngô giao cho nhiệm vụ liên lạc với khối Công giáo di cư nhưng chưa lập được thành tích gì thì chế độ nhà Ngô sụp đổ. Sau đảo chánh 1-11-1963, Nhạ tiếp tục làm việc với cha Hoàng Quỳnh, và sau đó được cha Hoàng Quỳnh giới thiệu với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Nhạ lại được Tướng Thiệu sử dụng trong việc móc nối với khối Công giáo. Khi Tướng Thiệu trở thành Tổng Thống, Nhạ thường được Tổng Thống Thiệu tham khảo về một số vấn đề chính trị có liên quan đến khối Công giáo. Nhạ được lệnh của Hà Nội tổ chức 1 cụm tình báo chiến lược với bí danh A-22, trong đó có Huỳnh Văn Trọng, lúc đó chính thức là Cố Vấn của Tổng Thống Thiệu. Cụm A-22 gồm một số những người đã từng bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung phát hiện và giam giữ tại Huế. Ðây là một sơ hở của Nhạ khiến cho CIA phát hiện được cụm A-22 và lập hồ sơ chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam. Giữa tháng 7-1969, tất cả 42 người hoạt động cho Cụm A-22 đều bị bắt và đưa ra toà xét xử vào tháng 11-1969. Ðây là một vụ án gián điệp rất nghiêm trọng gây chấn động trong chính trường của VNCH vì các bị cáo đều là người có chức vụ khá cao trong chính phủ như sau:

• Vũ Ngọc Nhạ: “cố vấn” bán chính thức của Tổng Thống Thiệu
• Huỳnh Văn Trọng: cố vấn về đối ngoại của Tổng Thống Thiệu
• Vũ Hữu Ruật: Tổng Thư Ký của Ðảng Dân Chủ, Thành bộ Sài Gòn
• Lê Hữu Thúy: Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin – Chiêu Hồi
• Nguyễn Xuân Hòe, Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống
• Hoàng Hồ, Dân Biểu Quốc Hội (đã bỏ trốn; sau đó Quốc Hội đã bỏ phiếu truất quyền)

1427
Huỳnh Văn Trọng ( giữa ) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh án 20 năm

Vũ Ngọc Nhạ bị kết án tù chung thân và đưa ra Côn Ðảo. Năm 1973, sau Hiệp Ðịnh Paris, Nhạ được trao trả cho Cộng sản. Sau năm 1975, Nhạ công tác tại Cục 2 (cơ quan phụ trách tình báo của Việt Nam) với cấp bậc Thượng Tá và sau đó thăng lên Ðại Tá. Năm 1988, Nhạ được thăng cấp Thiếu Tướng. Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh.53

 phamxuanan
Nhà báo Phạm Xuân Ẩn

Người điệp viên nổi tiếng nhất của Miền Bắc hoạt động tại Miền Nam là Phạm Xuân Ần. Khác với Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ, Ần đã tạo được kỳ tích là hoạt động trong suốt mấy chục năm mà hoàn toàn không bị phát hiện hay tạo ra nghi ngờ gì cả trong giới tình báo Hoa Kỳ và VNCH. Ần sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa, học tiểu học tại Trường Tiểu học Marc Ferrando ở Sài Gòn, học trung học ở Cần Thơ. Năm 1954 ông bị động viên và làm việc cho quân đội Pháp một thời gian. Ông là điệp viên duy nhứt của Miền Bắc đã từng du học 2 năm (1957-1959) về ngành báo chí tại Ðại Học Cộng Ðồng Orange Coast College, thuộc thành phố Costa Mesa, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Nhờ vào đó, ông là một trong số rất ít người Việt Nam được nhận làm phóng viên cho các hãng truyền thông Anh Mỹ như Reuters, Time, Christian Science Monitor. Nhờ vỏ bọc này, Ần đã có giao thiệp rộng rãi với các nhà báo Mỹ, qua đó tạo được quan hệ rất tốt với nhiều giới chức Mỹ-Việt, và nhờ vậy đã cung cấp được cho Hà Nội nhiều tin tức tình báo chiến lược rất quan trọng. Sau năm 1975, ông được phong Thiếu Tướng, và được ban danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân. Ông mất ngày 20-9-2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh.54 Cuộc đời ông đã được ghi lại trong một cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (Best-seller) tại Hoa Kỳ của tác giả Giáo sư Chính Trị Học Larry Berman thuộc Ðại Học California, Davis với nhan đề là: Perfect spy: the incredible double life of Pham Xuan An, Time Magazine reporter and Vietnamese Communist agent (New York: Smithsonian Books, 2007; 328 tr.).

Một điều cũng đáng được lưu ý là cả 3 điệp viên nổi tiếng này của Miền Bắc, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ẩn, sau khi qua đời, đã được an táng gần nhau trong cùng nghĩa trang Lạc Cảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài 3 điệp viên nổi tiếng trên mà phần đông mọi người đều có nghe nói đến, cũng nên kể đến một điệp viên thứ tư, ít người biết, là điệp viên H3, là một hạ sĩ quan, tên Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1933, tại Hưng Yên, vào Nam sinh sống từ lúc còn nhỏ), làm việc ngay trong văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Sau năm 1975, H3 được phong quân hàm Ðại Tá, và ban danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân. (Sẽ đề cập đến H3 trong phần bên dưới của bài viết).

Nói chung, nhờ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn, Miền Bắc tương đối thành công hơn Miền Nam trong việc cài người xâm nhập vào hệ thống chính trị và quân sự của đối phương.

Tình Báo Trong Một Số Trận Ðánh Quan Trọng

Trong suốt thời gian khoảng trên dưới 20 năm chiến tranh đó, hệ thống tình báo của cả 2 phe đã hoạt động rất tích cực và đạt hiệu quả khá cao nhưng vẫn không tránh khỏi có những thất bại rất nghiêm trọng. Phần này của bài viết cố gắng tìm hiểu, phân tích và đánh giá các hoạt động tình báo của cả 2 phe trong 2 trận đánh quan trọng và tiêu biểu của 2 giai đoạn trong Chiến tranh Việt Nam: 1) Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (tháng 2-1968) của giai đoạn có quân Mỹ tham chiến; và 2) Trận Ban Mê Thuột (tháng 3-1975) sau Hòa Ðàm Paris và quân Mỹ đã rút khỏi Miền Nam.

Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (Tháng 2-1968)

Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân bắt đầu vào ngày 31-1-1968 (mùng 2 Tết Mậu Thân) trên khắp các thành phố của VNCH là một bất ngờ rất lớn trong cuộc chiến tranh vì cả 2 phe lâm chiến đều đã đồng ý hưu chiến 3 ngày trong thời gian Tết. Phần lớn quân nhân, công chức của VNCH đều được nghỉ phép để về quê ăn Tết với gia đình (kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng về ăn Tết ở quê vợ là Mỹ Tho). Việc không tiên đoán được cuộc tấn công với quy mô lớn như vậy của phe Cộng Sản là một thất bại rất lớn về tình báo của cả VNCH và Hoa Kỳ. Câu hỏi cần phải đặt ra là tại sao VNCH và Hoa Kỳ, với một hệ thống tình báo to lớn, đầy đủ và tinh vi như vậy mà không phát hiện được sự chuẩn bị của phe Cộng sản cho cuộc tổng tấn công này. Ðể có thể trả lời câu hỏi quan trọng này, chúng ta cần phải tìm hiểu những diễn biến trong cuộc chiến từ sau khi Hoa Kỳ đưa quân bộ chiến vào Miền Nam từ tháng 3-1965.

Sau cuộc đổ bộ của 5.000 Thủy Quân Lục Chiến vào Ðà Nẵng ngày 8-3-1965, quân số Mỹ tại Miền Nam đã gia tăng một cách vô cùng nhanh chóng: 55

• Cuối năm 1965: tổng số quân Mỹ là184.300
• Cuối năm 1966: tổng số quân Mỹ là 385.300
• Cuối năm 1967: tổng số quân Mỹ là 485.600

Trong mùa khô 1966-1967, trong chiến lược “lùng và diệt địch” (search and destroy) của Tướng Tư Lệnh MACV Westmoreland, quân đội Mỹ đã tổ chức ít nhứt là 5 cuộc hành quân lớn (cấp sư đoàn) tấn công vào các mật khu, căn cứ an toàn, và các trung tâm hậu cần của phe Cộng sản: 56

• Hành quân Attleboro: tại Dầu Tiếng (Tây Ninh), từ ngày 14-9 đến ngày 24-11-1966
• Hành quân Paul Revere IV: tại Thung lũng Plei Trap (phía Tây Pleiku, gần khu vực ba biên giới), từ ngày 20-10 đến ngày 30-12-1966
• Hành quân Thayer II: tại BÌnh Ðịnh, từ ngày 25-10-1966 đến ngày 12-2-1967
• Hành quân Cedar Falls: trong khuTam Giác Sắt (Bến Cát, tỉnh Bình Dương ), từ ngày 8 đến 26-1-1967
• Hành quân Junction City: trong Chiến Khu C (Tây Ninh, nơi đóng tổng hành dinh của TUC), từ ngày 22-2 đến ngày 14-5-1967 (đây là cuộc hành quân trực thăng vận Việt-Mỹ lớn nhứt trong Chiến tranh Việt Nam, với tổng số 25.000 quân tham chiến)

Các cuộc hành quân này, cùng với rất nhiều những cuộc hành quân khác của QLVNCH và các quân đội đồng minh trong thời gian 1966-1967 đã gây thiệt hại rất nặng nề về quân số (cả Việt cộng và Bắc Việt), tổ chức (mật khu, khu an toàn), và hậu cần (lương thực, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng) của phe Cộng sản. Tổng hành dinh của TUC (COSVN) trong Chiến Khu C phải dời sang lãnh thổ của Kampuchia. Tinh thần cán bộ, binh sĩ Cộng sản bị dao động, sa sút rất nghiêm trọng; điều này thể hiện rất rõ trong các quyển nhật ký của binh sĩ Bắc Việt tịch thu được trong các cuộc hành quân Việt-Mỹ. Số cán binh Cộng sản về hồi chánh cũng gia tăng lên rất nhiều.

Về mặt an ninh lãnh thổ của VNCH, chương trình bình định (Pacification) trong các vùng nông thôn cũng đang tạo được nhiều thành quả đáng kể từ giữa năm 1967 với những số thống kê như sau:

• 67% dân chúng sinh sống trong các vùng do chính phủ VNCH kiểm soát
• 222 quận (trong tổng số 242) được xem là có an ninh
• 8.650 ấp (trong tổng số 12.600) đã được bình định xong

Robert W. Komer (1922-2000), đứng đầu Chương trình CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) của MACV phụ trách về bình định (gồm cả Chương trình Phượng Hoàng—Phoenix Program—với mục tiêu là tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng—VCI = Viet Cong Infrastructure), đã lạc quan báo cáo về tình hình Chiến tranh Việt Nam cho Tổng Thống Johnson vào ngày 28-2-1967 như sau: “…wastefully, expensively, but nonetheless indisputably, we are winning the war in the South.” 57 (xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “…phí phạm, tốn kém nhưng không thể chối cãi được, chúng ta đang thắng cuộc chiến tại Miền Nam”).

Cũng trong thời gian này, về phương diện chính trị, VNCH đã vượt qua được thời kỳ hỗn loạn và đã thành công tạo được sự ổn định với Hiến Pháp 1967 đưa đến việc thành lập của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa vào cuối năm 1967.58

Tất cả các điều này đã tạo ra cho các cấp lãnh đạo Việt-Mỹ (kể cả các cấp lãnh đạo về tình báo) một tinh thần lạc quan quá trớn đưa đến sai lầm trong nhận định và đánh giá về quyết tâm và khả năng của phe Cộng sản.

Việc tiến hành cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân đã được lãnh đạo của Ðảng Lao Ðộng Việt Nam quyết định tại Hà Nội trong phiên họp của Bộ Chính Trị vào ngày 7-7-1967,59 và ngày khởi sự cuộc tấn công đã được định là ngày 29-1-1968, tức là ngày Mùng 1 Tết Mậu Thân, sau đó được dời lại một ngày, là ngày 30-1-1968, tức là Mùng 2 Tết Mậu Thân.60 Như vậy, VNCH và Hoa Kỳ đã có một khoảng thời gian gần 7 tháng mà vẫn không tiên đoán được về cuộc tấn công và hoàn toàn bị bất ngờ. Có đúng thật là hệ thống tình báo của VNCH và Mỹ đã hoàn toàn bất lực? Sự thật không phải như vậy. Cả VNCH và Hoa Kỳ đều có nắm được một số tin tình báo về cuộc tấn công này.

Về phía VNCH, Phòng 2 BTTM QLVNCH đã nhận được một số tin tức và tài liệu của phe Cộng sản như sau: 61

• Tháng 3-1967: một tài liệu tịch thu được của Công Trường 5 (tức là Sư Ðoàn 5 của Việt Cộng) về một kế hoạch tấn công vào Sài Gòn
• Ðầu tháng 10-1967: tài liệu học tập về Nghị Quyết 13 của Trung Ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, kêu gọi thực hiện một cuộc tổng tấn công để đạt chiến thắng nhanh chóng
• Cũng trong tháng 10-1967: một tài liệu của Chiến Trường B-3 (mật danh của phe Cộng sản để chỉ vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH), tịch thu được tại Dakto, đề cập đến những chuẩn bị với quy mô lớn cho Chiến dịch Ðông-Xuân 1968
• Cuối tháng 11-1967: một tài liệu đề ngày 1-9-1967, với tựa đề “Sứ mạng mới, công tác mới,” đề cập đến một cuộc tấn công lớn cùng với một cuộc tổng nổi dậy của dân chúng với tên tắt là “TCK-TKN” (viết tắt cho cụm từ Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa)
• Một số tài liệu lẻ tẻ đề cập đến cách tác chiến trong thành phố, một hình thức chiến thuật trước kia không bao giờ được đề cập đến trong các tài liệu tịch thu được

Như vậy, rõ ràng là tình báo VNCH có nắm được một số tin về ý đồ của phe Cộng sản cho một cuộc tấn công quy mô lớn vào các thành phố của VNCH. Vậy tại sao các cấp lãnh đạo của hệ thống tình báo VNCH đã không khuyến cáo chính phủ để chuẩn bị đối phó với cuộc tổng tấn công đó khiến cho VNCH hoàn toàn bị bất ngờ. Có hai lý do chính: 1) Cũng cùng tâm trạng lạc quan như các cấp lãnh đạo chính trị và quân sự, giới lãnh đạo tÌnh báo VNCH không tin là phe Cộng sản, trong tình trạng sa sút tinh thần trầm trọng của cán binh và sự thiệt hại nặng nề về vật chất (quân số, tiếp liệu, vv) trong các năm 1966-1967, có thể thực hiện nổi một cuộc tổng tấn công như vậy; nhận định và đánh giá của giới tình báo VNCH là: “Địch có ý đồ nhưng không có khả năng.” Giới tình báo VNCH tin rằng ngay như nếu họ có báo động thì các cấp lãnh đạo quân sự cũng sẽ không tin.62 2) Nhận định và đánh giá vừa kể cũng dựa trên tin tưởng là địch vẫn còn trong Giai đoạn 1 của Chiến lược mà họ đã theo đuổi từ lâu. Chiến lược này đã từng được áp dụng rất thành công trong Kháng chiến chống Pháp (1946-1954), nên lại được áp dụng một lần nữa trong cuộc chiến tranh này và gồm 3 giai đoạn: 1) Giai đoạn 1: Phòng ngự, 2) Giai đoạn 2: Chuẩn bị tổng tấn công, và 3) Giai đoạn 3: Tổng tấn công. Giới tình báo VNCH không tin là phe Cộng sản có khả năng tiến thẳng từ giai đoạn 1 sang ngay Giai đoạn 3.

Về phía Hoa Kỳ, cách nhận định và đánh giá tin của giới tình báo có phần hơi khác với phía VNCH. Thời gian 7 tháng (từ ngày 7-7-1967 cho đến 30-1-1968) có thể chia làm 2 giai đoạn:

• Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 11-1967: giới tình báo Hoa Kỳ, đồng quan điểm với giới tình báo VNCH, tin rằng phe Cộng sản vẫn còn trong Giai đoạn 1, nghĩa là không tin vào khả năng hiện thực của cuộc tổng tấn công
• Từ đầu tháng 12-1967: giới tình báo Hoa Kỳ, dựa trên những tin tức mới, đã tin là kế hoạch tổng tấn công của phe Cộng sản là có thật và họ đã có tiến hành việc chuẩn bị đối phó với cuộc tổng tấn công này

Chúng ta cố gắng tìm hiểu xem mọi việc đã xảy ra như thế nào về phía Hoa Kỳ trong giai đoạn từ đầu tháng 12-1967 trở đi.

Trước hết, trong tháng 12-1967, tình báo Hoa Kỳ đã ghi nhận một số lượng xe vận tải rất lớn di chuyển dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh: 6.313, so với 3.823 trong tháng 11-1967.63 Cũng trong tháng này, tình báo Hoa Kỳ, cả CIA lẩn J2-MACV, đều ghi nhận việc sử dụng nhiều loại vũ khí mới trong các đơn vị quân Cộng sản, như AK-47, RPG-7 (tức là súng phóng lựu chống xe tăng B-40), súng phóng hỏa. J2-MACV cũng phát hiện một số sư đoàn chủ lực của Bắc Việt, là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 325, và Sư Ðoàn 304 (Sư Ðoàn 304 là sư đoàn đã từng tham gia trận Ðiện Biên Phủ vào năm 1954) tập trung lại chung quanh căn cứ Khe Sanh trong Vùng I. Tất cả những diễn tiến này khiến cho Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV, tin rằng phe Cộng sản sẽ đánh lớn tại Vùng I và cuộc tấn công này sẽ xảy ra trong tháng 1-1968. Ông cũng nghĩ rằng phe Cộng sản cũng sẽ tấn công khắp lãnh thổ VNCH nhưng đó chỉ là nghi binh, để đánh lừa vì mục tiêu chính của cuộc tổng tấn công này sẽ là tại Vùng I, dọc theo Khu Phi Quân Sự, với trọng điểm là chung quang căn cứ Khe Sanh, và ông cũng không tin là phe Cộng sản sẽ tấn công vào Thủ đô Sài Gòn, và vì vậy ông đã đồng ý giao lại trách nhiệm bảo vệ Sài Gòn từ một đơn vị Hoa Kỳ cho Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của QLVNVCH tại một buổi lễ vào ngày 20-12-1967. Sau đó, ông đích thân bay ra Vùng I để thị sát và thảo luận với Thiếu Tướng Robert E. Cushman, Jr., Tư Lệnh Lưc Lượng Thủy Bộ số 3 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (3rd Marine Amphibious Force, 3rd MAF), về việc phòng thủ dọc theo Khu Phi Quân Sự mà nếu cần, ông sẽ cho tăng cường thêm cả Sư Ðoàn 1 Kỵ Binh Không Vận (1st Cavalry Division, phe Cộng sản thường gọi là Sư Ðoàn 1 Anh Cả Ðỏ).64 Sự tin tưởng về trọng điểm của cuộc tổng tấn công sắp đến của phe Cộng sản của Tướng Westmoreland xuất phát từ suy nghĩ của ông về Chiến tranh Việt Nam và dựa trên kết quả của các chiến lược mà ông đã áp dụng: “lùng và diệt địch” (search and destroy), và “hao mòn” (attrition) từ năm 1965. Ṓng tin rằng Bắc Việt quyết lòng đánh bại chiến lược tạo ra phòng tuyến bao che (shield strategy) mà ông đã xây dựng dọc theo biên giới của VNCH và đặc biệt là dọc theo phía Nam Khu Phi Quân Sự (vĩ tuyến 17) để ngăn chận sự xâm nhập của quân Bắc Việt vào Miền Nam. Căn cứ quan trọng của lực lượng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ tại thung lũng Khe Sanh đóng một vai trò khá giống căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp vào năm 1954.

Ngày 30-12-1967, Ngoại Trưởng Bắc Việt Nguyễn Duy Trinh tuyên bố tại một buổi tiếp tân của Bộ Ngoại Giao tại Hà Nội là việc ngưng oanh tạc Bắc Việt sẽ đưa đến thương thuyết giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt. Ðây là một thay đổi quan trọng trong lập trường của Bắc Việt về thương thuyết vì trước kia họ chỉ nói là việc Hoa Kỳ ngưng oanh tạc có thể đưa đến việc thương thuyết. Ðiều này càng củng cố thêm sự tin tưởng của Tướng Westmoreland là Bắc Việt (qua sắp xếp của Tướng Võ Nguyên Giáp) đang tìm cách chơi lại ván bài mà họ đã chơi và thắng trong Hội Nghị Genève năm 1954, với Khe Sanh sẽ đóng vai trò Ðiện Biên Phủ trong ván bài lần này. Hai hôm sau, ngày 1-1-1968, Ðài Phát Thanh Hà Nội lập lại lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Trinh, cho thấy đây quả thật đã trở thành lập trường chính thức của Bắc Việt.

Qua tháng 1-1968, rõ ràng có những hoạt động của quân Bắc Việt nhắm vào Khe Sanh. Vào đêm 2-1-1968, TQLC Mỹ đi tuần tra đã bắn chết một số quân Bắc Việt (trong số này phát hiện có một sĩ quan Trung Ðoàn Trưởng) đang thám thính gần căn cứ hỏa lực tại Khe Sanh. Tướng Cushman tin rằng đó là bằng cớ chứng tỏ quân Bắc Việt sẽ tấn công Khe Sanh.

Vì định kiến này, các cấp lãnh đạo tình báo và quân sự Hoa Kỳ đã coi nhẹ và bỏ qua rất nhiều tin tức liên quan đến các hoạt động quân sự của phe Cộng sản nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân trong tháng 1-1968 như các vụ sau đây: 65

• Ngày 3-1-1968, J2-MACV đã có báo cáo về việc khám phá vụ chôn dấu vũ khí của Việt Cộng trong một nghĩa địa trong vùng ngoại ô Sài Gòn.
• Ngày 4-1-1968, QLVNCH khám phá một hầm chôn dấu vũ khí quan trọng tại Ðịnh Tường (Vùng IV), trong số này có cả 55 quả đạn bích kích pháo 55mm là loại vũ khí chưa từng được VC sử dụng trong Vùng IV; sau đó một cán bộ VC chỉ huy một đại đội vận tải bị bắt đã khai báo và hướng dẫn QLVNCH tìm thêm được 41 địa điểm chôn dấu vũ khí nữa trong vùng.
• Cũng trong ngày 4-1-1968, J2-MACV đã có báo cáo về việc một toán đặc công VC toan xâm nhập vào khu vực tổng hành dinh của MCV tại Tân Sơn Nhất bằng cách xin công việc làm tại sân bay.
• Ngày 5-1-1968, J2-MACV cũng có báo cáo về một tài liệu tịch thu được tại Pleiku mang tựa đề “Lệnh Tác Chiến Khẩn Cấp Số 1”; ngoài kế hoạch tấn công Pleiku, tài liệu còn bao gồm cả chỉ thị cho cán bộ trong việc kêu gọi dân chúng nổi dậy.
• Ngày 9-1-1968, tình báo Mỹ cũng tịch thu được một tài liệu trình bày việc tổ chức lại hệ thống chỉ huy của VC.

Giới tình báo Mỹ chỉ thật sự quan tâm khi được giới tình báo VNCH cho biết họ thật sự rất lo lắng về tin VC đã có kế hoạch khủng bố lớn nhắm vào người Mỹ (cả dân sự lẩn quân sự) sinh sống và làm việc tại Sài Gòn.

Cho đến gần cuối tháng 1-1968, Tướng Westmoreland vẫn còn giữ nguyên định kiến của ông về ý đồ của phe Cộng Sản. Trong báo cáo đề ngày 22-1-1968 gửi cho Ðô Ðốc Ulysses S. Grant Sharp, Jr. (Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái BÌnh Dương, CINCPAC = Commander-In-Chief, Pacific, cấp chỉ huy trực tiếp của Tướng Westmoreland) và Ðại Tướng Earle G. Wheeler (Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ = Chairman of the Joint Chiefs of Staff), Tướng Westmoreland báo cáo như sau: “I believe that the enemy will attempt a country-wide show of strength just prior to Tet, with Khe Sanh being the main event. In II Corps, he will probably attack Pleiku and Kontum cities, and I expect attacks on the Special Forces camps at Da Seang, Duc Co, and Dak To. In III and IV Corps, province towns are likely targets for renewed attacks by fire. Terrorism will probably increase in and around Saigon.” 67 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tôi tin rằng địch quân sẽ cố gắng thực hiện một cuộc biểu dương lực lượng trên toàn quốc trước Tết, với Khe Sanh là biến cố chánh. Tại Vùng II, có thể địch quân sẽ tấn công các thành phố Pleiku và Kontum, và tôi cũng nghĩ là họ sẽ tấn công các trại Lực Lượng Ðặc Biệt tại Dak Seang, Ðức Cơ và Ðắc Tô. Tại Vùng III và IV, các tỉnh lỵ có thể lại là mục tiêu cho các cuộc pháo kích. Hoạt động khủng bố có thể sẽ gia tăng tại Sài Gòn và các vùng phụ cận.”)

Trong các ngày 23-26 tháng 1-1968, J2-MACV liên tục nhận được tin về các hoạt động khủng bố của địch nhắm vào thành phố của VNCH, đặc biệt là thủ đô Sài Gòn. Sáng ngày 27-1-1968, Tướng Davidson, J2-MACV, báo cáo tình hình cho Tướng Westmoreland, tiên đoán VC sẽ có tấn công lớn trên toàn quốc, và ông đặc biệt nêu tên 2 thành phố Pleiku và Kontum.68 Sáng sớm ngày 30-1-1968, tức Mùng Một Tết Mậu Thân, VC tấn công cùng một lúc 6 thị trấn tại các tỉnh Miền Trung. Ngay buổi sáng hôm đó, lúc 7 giờ, Tướng Davidson lập tức báo cáo cho Tướng Westmoreland về các cuộc tấn công này và tiên đoán VC sẽ tái diễn các cuộc tấn công này trên tất cả các vùng còn lại trên khắp lãnh thổ VNCH vào tối hôm đó. Tướng Westmoreland hoàn toàn đồng ý và lập tức ra lệnh báo động và thông báo cho tư lệnh các đơn vị quân Mỹ về khả năng địch sẽ tấn công lớn vào đêm đó.69

Kết luận: Về phương diện tình báo, đối với cả VNCH và Hoa Kỳ, việc không tiên đoán được cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân của phe Cộng Sản, không thể chối cãi được, là một thất bại hết sức nghiêm trọng.

Về phía VNCH, rõ ràng là các cơ quan tình báo đã có nắm được một số tin tức khá rõ ràng liên quan đến kế hoạch của cuộc Tổng Tấn Công này nhưng việc phân tích, nhận định, và đánh giá tin của các cấp chỉ huy tình báo đã không chính xác, chủ yếu dựa vào sự lạc quan, tin tưởng là địch tuy có ý đồ nhưng không có khả năng thực hiện một cuộc tấn công với quy mô trên cả nước như thế. Nhờ thất bại này, giới tình báo VNCH đã học được một bài học lớn về quyết tâm của địch và vì vậy đã tiên đoán được rất chính xác đợt tấn công lần thứ hai vào Sài Gòn của VC vào tháng 5-1968.

Về phía Hoa Kỳ, Hội Ðồng Cố Vấn Tình Báo Hải Ngoại của Tổng Thống (President’s Foreign Intelligence Advisory Board, viết tắt là PFIAB) đã thiết lập một ủy ban cấp cao để điều tra về công tác tình báo trong thời gian trước cuộc tấn công. Báo cáo của ủy ban, gồm 9 trang, với tựa đề là “Intelligence warning of the Tet Offensive in South Vietnam,” được hoàn thành trong tháng 4-1968. Trong phần kết quả điều tra (General Findings), ủy ban đưa ra một số kết luận như sau: “Although warning had thus been provided, the intensity, coordination, and timing of the enemy attack were not fully anticipated. … A second major unexpected element was the number of simultaneous attacks mounted. … Underlying these specific problems was a more basic one: most commanders and intelligence officers, at all levels, did not visualize the enemy as capable of accomplishing his stated goals as they appeared in propaganda and in captured documents. Prevailing estimates of attrition, infiltration, and local recruitment, reports of low morale, and a long series of defeats had degraded our image of the enemy. The general picture presented was an enemy unable to conduct an offensive of such scope and intensity.” 70 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Mặc dù đã có những báo động, cường độ, phối hợp, và thời điểm của cuộc tấn công của địch đã không hoàn toàn được dự đoán trước. … Một yếu tố quan trọng nữa đã không được đoán trước là con số những cuộc tấn công sẽ được thực hiện cùng một lúc. … Bên dưới những vấn đề cụ thể đó là một vấn đề căn bản hơn: phần lớn các cấp chỉ huy và các sĩ quan tình báo, ở tất cả mọi cấp, đã không hình dung ra được là địch quân có khả năng hoàn thành được những mục tiêu đề ra mà chúng đã tuyên truyền hay trong các tài liệu tịch thu được. Những ước lượng về địch quân đang thịnh hành về các mặt hao mòn, xâm nhập, và tuyển mộ tại địa phương, các báo cáo về việc xuống tinh thần, và một chuỗi dài những thất trận của họ đã làm cho chúng ta xem thường địch quân. Hình ảnh tổng quát được trình bày cho chúng ta là một địch quân không có khả năng thực hiện một cuộc tấn công với tầm vóc và cường độ như thế.”). Tướng Davidson, Trưởng J2-MACV trong thời gian Trận Mậu Thân, cho biết ông đồng ý với kết quả điều tra của ủy ban này, nhưng quan điểm của ông có khác biệt về mức độ. Ông cho rằng yếu tố quan trọng nhất trong bất ngờ về chiến thuật không phải là thời điểm của cuộc tấn công, mà là ở điểm địch quân đã tấn công vào quá nhiều thành phố và vào cùng một thời điểm.

Về phía phe Cộng sản, họ đã thành công trong việc tạo được bất ngờ nhờ họ đã rất tích cực trong các công tác bảo mật và phản gián (đánh lừa đối phương). Phe Cộng sản hiểu rất rõ là để có thể thành công trong kế hoạch tổng tấn công này họ phải giữ bí mật tuyệt đối về ngày giờ tấn công và địa điểm tấn công. Và họ đã làm được tốt công tác này trong cả hai lãnh vực bảo mật và đánh lừa đối phương. Trong lãnh vực bảo mật, vì tất cả các cấp chỉ huy quân sự của VC và quân Bắc Việt đều là đảng viên cộng sản, việc bảo mật không phải là một vấn đề vì họ đã quá quen thuộc với việc này. Mặc dù vậy, chỉ có cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên mới được học tập đầy đủ về kế hoạch này. Vì thế, nhân viên Việt-Mỹ của Chiến địch Phượng Hoàng ở khắp lãnh thổ của VNCH, nhưng chủ yếu nhắm vào hạ tầng cơ sở của VC, đã không phát hiện được kế hoạch này. Trong lãnh vực đánh lừa đối phương, phe Cộng sản đã thực hiện một số công tác quan trọng: 1) dùng chiêu bài hưu chiến trong thời gian Tết; 2) tấn công một số tiền đồn và căn cứ Việt-Mỹ ở biên giới, và, đặc biệt đe dọa căn cứ Khe Sanh của TQLC Mỹ; và, 3) dùng đòn ngoại giao của Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh để cho chính phủ Mỹ nghĩ và tin rằng họ đã không còn chịu đựng nổi việc oanh tạc liên tục của Hoa Kỳ và đã muốn thương thuyết.

Trận Ban Mê Thuột (Tháng 3-1975)

Trận Ban Mê Thuột diễn ra chỉ trong khoảng 1 tuần lễ ngắn ngủi (từ ngày 10-3 đến ngày 18-3-1975) nhưng có tầm vóc hết sức quan trọng trong cuộc chiến kéo dài gần 20 năm. Nó mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên của phe Cộng sản trực tiếp đưa đến quyết định tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệt thoái khỏi Vùng II và gián tiếp tạo ra sự sụp đổ của VNCH vào cuối tháng 4-1975.

Sau khi mất tỉnh Phước Long (vào đầu tháng 1-1975, mà chính quyền VNCH quyết định bỏ luôn, không tìm cách đánh chiếm lại như đối với tỉnh Quảng Trị trong Mùa Hè 1972), các nhà lãnh đạo quân sự của VNCH đều nghĩ và tin rằng phe Cộng sản sẽ tấn công mạnh ở Vùng II, tại Cao Nguyên Trung Phần.

Thật ra, ngay từ trước khi xảy ra trận Phước Long, vào 2 ngày 9-10 tháng 12-1974, trong cuộc họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia, diễn ra tại Dinh Ðộc Lập dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, để thảo luận về kế hoạch phòng thủ cho năm 1975, Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã tiên đoán là Cộng sản sẽ không tiến hành một cuộc tổng tấn công như họ đã làm trong mùa Hè năm 1972, mà chỉ thực hiện những cuộc tấn công có quy mô lớn, khởi sự tại Vùng II và thời điểm sẽ là trong tháng 3-1975. Tại Vùng II, ông dự đoán là họ sẽ tập trung các cố gắng ở phía Bắc của vùng chiến thuật này, cụ thể là Kontum và phía Bắc của Bình Ðịnh.72 Chính vì vậy, dự kiến Cộng quân sẽ cắt đứt các quốc lộ chính từ duyên hải lên cao nguyên, từ cuối tháng 1-1975, BTTM đã cho chuyển lên Pleiku và Kontum một số lượng rất lớn về lương thực và đạn dược đủ để cho lực lượng phòng thủ Pleiku và Kontum (ước lượng khoảng 20.000 quân) sử dụng trong 60 ngày mà không cần tiếp tế.73

Bản đồ dưới đây cho thấy rõ sự tập trung phòng thủ dày đặc của QLVNCH ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku và Kontum) vào đầu tháng 3-1975 như sau:

Anh_002.jpg
Bản Ðồ Bố Trí CÁc Lực Lựợng Phòng Thủ Tại Vùng II
Vào Ðầu Tháng 3-1975 (Trích từ trang 149 của sách Black April)

• 3 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bảo vệ Kontum và 1 Liên Ðoàn BÐQ bảo vệ Quốc Lộ 14 (nối liền Kontum và Pleiku; chạy thẳng xuống phía Nam, đến Ban Mê Thuột)
• 2 Trung Ðoàn 44 và 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh bảo vệ Pleiku
• 4 Trung Ðoàn 40, 41, 42 và 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh bảo vệ phía Bắc Bình Ðịnh và các đèo Mang Giang và An Khê trên Quốc Lộ 19 (nối liền Qui Nhơn–tỉnh lỵ của Bình Ðịnhh–với Kontum)

Ðể bảo vệ Ban Mê Thuột chỉ có Liên Ðoàn 21 BÐQ đóng ở Buôn Hồ (một thị trấn nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 40 km về hướng Ðông Bắc), các đơn vị cơ hữu của tỉnh Darlac, và Trung Ðoàn 53 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Theo Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac, trên thực tế, Trung Ðoàn 53, đóng tại Phi trường Phụng Dực (cách Ban Mê Thuột khoảng 8 km về hướng Ðông), vào lúc đó chỉ gồm có bộ chỉ huy Trung Ðoàn và 1 Tiểu Ðoàn mà thôi.74

Khi trận tấn công Ban Mê Thuột nổ ra vào ngày 10-3-1975, lực lượng hai bên được bố trí như trong bản đồ sau đây:

Anh_003
Bản Ðồ Trận Ban Mê Thuột (Trích từ trang 157 của sách Black April)

Nhìn vào bản đồ bên trên, chúng ta thấy rõ là địch quân đã tấn công vào Ban Mê Thuột từ 5 phía với các lực lượng như sau:

• Từ hướng Tây Bắc: với Trung Ðoàn 148, thuộc Sư Ðoàn 316
• Từ hướng Ðông Bắc: với Trung Ðoàn 95B, thuộc Sư Ðoàn 325
• Từ hướng Ðông Nam: với Trung Ðoàn 149, thuộc Sư Ðoàn 316
• Từ hướng Tây: với Tiểu Ðoàn 4, thuộc Trung Ðoàn 24, Sư Ðoàn F10
• Từ hướng Nam: với Trung Ðoàn 174, thuộc Sư Ðoàn 316

Như vậy, lực lượng chính tấn công Ban Mê Thuột là Sư Ðoàn 316, với 3 Trung Ðoàn cơ hữu là 148, 149, và 174, tăng cường thêm với 1 trung đoàn của Sư Ðoàn 325 và 1 tiểu đoàn của Sư Ðoàn F10, và, dĩ nhiên, với các đơn vị pháo binh, chiến xa, và đặc công. Sư Ðoàn 316 trước đây chỉ hoạt động tại Lào và từ năm 1974 đã được lệnh quay trở về Bắc Việt. Sư hiện diện của sư đoàn này tại Miền Nam sẽ là một bất ngờ cho giới tình báo VNCH.

Sau đây chúng ta cố gắng tìm hiểu sự sắp xếp và chuẩn bị cho cuộc tấn công của phe Cộng sản và những hoạt động tình báo của hai bên trước khi cuộc tấn công nổ ra.

Việc phe Cộng sản quyết định tấn công Ban Mê Thuột thay vì Pleiku một phần lớn là do họ đã nắm được tin tức về buổi họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia của VNCH vào 2 ngày 9-10 tháng 12-1974. Toàn bộ kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 của Ðại Tướng Cao Văn Viên trình bày tại buổi họp đã được một điệp viên thuộc loại “trường kỳ mai phục,” làm việc ngay trong văn phòng của Tướng Viên tại BTTM QLVNCH, báo cáo đầy đủ về Hà Nội.75,76

Trong khi đó, nội bộ ban tham mưu của Quân Ðoàn II lại không đồng ý với nhau về mục tiêu tấn công của phe Cộng sản tại Vùng II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku, trong khi đó thì Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 (phụ trách về tình báo) của Quân Ðoàn II thì lại tin là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Việc Tướng Phú không tin vào nhận định của Ðại Tá Tiếu có thể có một số lý do như sau: 1) Tướng Phú tin tưởng và dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của BTTM như đã trình bày trên; 2) Sự tin tưởng này của Tướng Phú được tăng cường thêm sau buổi họp ngày 18-2-1975 tại Sài Gòn để duyệt lại kế hoạch phòng thủ 1975 này và chính Tổng Thống Thiệu lưu ý ông việc Cộng quân có thể sẽ đánh Pleiku; chính vì vậy ông đã một lần nữa, tại buổi họp ngày hôm sau, 19-2-1975, tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku, bác bỏ báo cáo của Ðại Tá Tiếu về khả năng tấn công Ban Mê Thuột dựa trên những tin tình báo mới; và 3) Khi nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Tướng Phú không chọn được những sĩ quan thân tín của mình mà phải chấp nhận những sĩ quan đang phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Ðoàn (trong đó có Ðại Tá Tiếu).

Về phía Cộng quân, dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của VNCH mà họ đã nắm được cộng thêm việc bố trí lực lượng phòng thủ dày đặc của Quân Ðoàn II ở phía Bắc của Vùng II, họ thấy rõ là Tướng Phú tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku. Do đó họ đã tập trung cố gắng làm mọi động tác giả để đánh lừa Tướng Phú, làm cho ông tin rằng ông đã tính toán đúng là họ sẽ đánh Pleiku chứ không phải Ban Mê Thuột.
Nhìn chung, phe Cộng sản đã lại áp dụng phương thức mà họ đã từng sử dụng trong lúc chuẩn bị trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân để đạt được mục tiêu này. Phương thức đó gồm 2 phần: 1) Bảo mật tối đa về mục tiêu thật của trận tấn công là Ban Mê Thuột; và, 2) Thực hiện môt số động tác giả để đánh lừa đối phương khiến cho đối phương tin là mục tiêu thật của trận tấn công sẽ là Pleiku-Kontum.

Bảo mật:

Về phương diện bảo mật, rút kinh nghiệm từ trận Mậu Thân, mục tiêu Ban Mê Thuột của trận tấn công được giữ kín tối đa. Các tư lệnh tại mặt trận chỉ được biết vào cuối tháng 1-1975, và tư lệnh các đơn vị sẽ tham gia tấn công chỉ được thông báo từ đầu tháng 2-1975. Hà Nội cũng quyết định giữ nguyên các đơn vị đang có mặt ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku-Kontum) là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 3, Sư Ðoàn F10 và 2 Trung Ðoàn độc lập 25 và 95A, và ra lệnh cho các đơn vị đó tăng cường các hoạt động đe dọa vùng này. Trong khi đó, các đơn vị sẽ tham gia tấn công Ban Mê Thuột đều là các đơn vị trừ bị đang đóng quân tại Lào hay tại Bắc Việt được bí mật di chuyển vào các vị trí chung quanh Ban Mê Thuột để chuẩn bị tấn công. Sư Ðoàn 316, đơn vị chủ lực của trận tấn công vào Ban Mê Thuột, trước kia chỉ hoạt động tại Lào, sau đó được điều dộng trở về Miền Bắc, đã nhận được lệnh di chuyển vào Nam vào ngày 15-1-1975, nhưng để lại bộ phận truyền tin tại Miền Bắc để tiếp tục gửi đi các báo cáo nhằm đánh lừa các đơn vị SIGINT của QLVNCH.77

Ðánh lừa:

Ðầu tháng 2-1975, một đơn vị của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh QLVNCH bắt được 1 binh sĩ Bắc Việt tại một địa điểm ở phía Tây tỉnh Bình Ðịnh gần đèo An Khê. Qua thẩm vấn được biết binh sĩ này đã tháp tùng viên tư lệnh của Sư Ðoàn 3 Bắc Việt đi thám sát đèo An Khê. Trong mình binh sĩ này có giữ một bản đồ ghi rõ các địa điểm mà Sư Ðoàn 3 dự định sẽ đóng chốt để cắt đứt Quốc Lộ 19 là con đường huyết mạch nối liền Qui Nhơn (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Ðịnh) với Pleiku. Cùng lúc đó, Phòng 2 của Quân Ðoàn II cũng bắt được tin Sư Ðoàn 968 Bắc Việt đang đóng tại Lào đã di chuyển sang lãnh thổ VNCH. Tướng Phú tin rằng Cộng quân đang chuẩn bị tấn công Pleiku, và ông đã ra lệnh cho Trung Ðoàn 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đến trấn giữ đèo An Khê.78 Lý do Trung Ðoàn 47 được giao cho nhiệm vụ này vì vị sĩ quan Trung Ðoàn Trưởng, Trung Tá Lê Cầu, là người rất quen thuộc địa hình vùng đèo An Khê vì ông đã từng chiến đấu tại đây trong trận Tổng Tấn Công Mùa Hè 1972. Trong suốt tháng 2-1975, các đơn vị Cộng quân hiện diện trong vùng liên tục pháo kích Kontum và Pleiku cũng như đánh phá các chốt bảo vệ đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 của Trung Ðoàn 47.79 Các đơn vi này do 2 Sư Ðoàn F10 và 320 để lại để thực hiện kế hoạch nghi binh, còn toàn bộ 2 sư đoàn này đã di chuyển xuống phía Nam để chuẩn bị tấn công Ban Mê Thuột. Tất cả những hoạt động này của địch làm cho Tướng Phú càng thêm tin là Pleiku sẽ là mục tiêu chính của cuộc tấn công sắp tới của Cộng quân.

Giữa tháng 2-1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Nguyễn Tú của báo Chính Luận, Tướng Phú đã nói ra tất cả những gì ông suy nghĩ và phân tích về cuộc tấn công sắp tới của địch. Ṓng tin rằng địch sẽ sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn để cắt đứt Quốc Lộ 19 trước khi tấn công Pleiku.80

Ngày 18-2-1975, Tướng Phú về Sài Gòn dự phiên họp với các tướng tư lệnh quân đoàn do Tổng Thống Thiệu triệu tập để duyệt lại kế hoạch phòng thủ cho năm 1975. Tại phiên họp này, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng địch có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của địch quân.81 Do đó, ông đã một lần nữa bác bỏ nhận định của Ðại Tá Tiếu về khả năng địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột tại phiên họp của ban tham mưu Quân Ðoàn II ở Pleiku vào ngày hôm sau, 19-2-1975.

Ðầu tháng 3-1975, trước một số tin tình báo về các hoạt động của địch chung quanh Ban Mê Thuột làm Tướng Phú có phần nao núng. Ngày 4-3-1975, ông ra lệnh cho Trung Ðoàn 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh di chuyển về Ban Mê Thuột. Việc di chuyển này sắp bắt đầu thì vào lúc 2 giờ trưa cùng ngày, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại Pleiku bị địch quân pháo kích, Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân này.82 Cùng ngày địch quân tấn công dữ dội vào các đơn vị của Trung Ðoàn 47 và cắt đứt Quốc Lộ 19 tại hai nơi. Tướng Phú tin chắc là địch quân đã bắt đầu chiến dịch tấn công vào Pleiku.

Việc chuyển quân của Sư Ðoàn 316 từ Bắc vào Nam cũng như của Sư Ðoàn 968 từ Lào sang Việt Nam, mặc dù được ngụy trang rất kỹ như đã trình bày bên trên, sau cùng vẫn bị SIGINT của QLVNCH phát hiện. Sau khi phân tích tín hiệu, và đánh giá, Phòng 7 BTTM QLVNCH nhận định là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Ngày 7-3-1975, 3 ngày trước khi trận Ban Mê Thuột nổ ra, Chuẩn Tướng Phạm Hữu Nhơn, Trưởng Phòng 7, BTTM QLVNCH, cùng với Tom Glenn là Trưởng đơn vị của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (National Security Agency – NSA) của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã bay lên Pleiku để đích thân báo cho Thiếu Tướng Phú về nhận định của Phòng 7 là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột (cuộc họp này có mặt cả Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân Ðoàn 2) nhưng Tướng Phú vẫn không tin.83 Ngay cả vào lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-1975, sau khi Thuần Mẫn, thuộc tỉnh Phú Bổn, đã mất, và Ðức Lập, thuộc tỉnh Quảng Ðức cũng đã bị chiếm, ông bay xuống Ban Mê Thuột để họp với các đơn vị trưởng tại đây để duyệt xét tình hình, Tướng Phú vẫn còn tiếp tục nghĩ và tin là tất cả chỉ là nghi binh. Ông vẫn chờ cuộc tấn công vào Pleiku, một cuộc tấn công chẳng bao giờ xảy ra. Sáng sớm ngày hôm sau, 10-3-1975, trận tấn công vào Ban Mê Thuột nổ ra và chỉ trong 2 ngày toàn bộ thị xã này đã lọt vào tay Cộng quân.

Kết luận: QLVNCH thua trận Ban Mê Thuột không phải vì tình báo yếu kém mà rõ ràng là do Tướng Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II bị định kiến quá nặng nề, Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, với trách nhiệm phải bảo vệ một lãnh thổ quá rộng lớn như thế (gồm tất cả 12 tỉnh, 7 tỉnh cao nguyên là Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Ðức, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và 5 tỉnh duyên hải là Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận), thì Quân Ðoàn II, chỉ với 2 sư đoàn bộ binh (22 và 23) cùng một số liên đoàn BÐQ, cũng khó mà đương đầu nổi với một lực lương địch quân đông gấp 3,4 lần với các Sư Ðoàn 2, 3, F10, 968, 316, 320, và 325, và 1 số trung đoàn độc lập. Một bằng chứng rõ ràng là việc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột đã không thể thực hiện được. Và đó là một trong những lý do đưa đến quyết định triệt thoái Quân Ðoàn II rất tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại phiên họp định mệnh ngày 14-3-1975 tại Cam Ranh.

Thay Lời Kết

Không thể phủ nhận được vai trò hết sức quan trọng của tình báo trong Chiến Tranh Việt Nam, cũng như trong bất cứ cuộc chiến tranh nào. Và vì thế, dĩ nhiên, các quân đội của các phe lâm chiến đều phải tổ chức một hệ thống tình báo thật đầy đủ và tinh vi để có thể nắm được ý đồ và mục tiêu của đối phương cũng như che dấu và đánh lừa đối phương về ý đồ, mục tiêu của mình. Trong Chiến Tranh Việt Nam, VNCH và Ðồng Minh Hoa Kỳ đã tổ chức được một hệ thống tình báo rất hữu hiệu. Rất tiếc, trong một số trận đánh quan trọng, các cấp chỉ huy tình báo và quân sự của VNCH và Hoa Kỳ, vì định kiến quá nặng nề, đã không tin tưởng vào chính hệ thống tình báo của mình, và vì thế đã thất bại, không nắm được ý đồ và mục đích của địch quân.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét