Không rõ năm sinh của Chế Bồng Nga [1] , nhưng vào năm Hồng
Vũ thứ 2 (1369) khi vua Thái Tổ nhà Minh sai sứ báo tin cho các nước về việc
nhà Minh giành ngôi từ nhà Nguyên, thì Chế Bồng Nga (tên ghi trong Minh Thực lục
là Ha Đáp Ha Giả) đã làm vua và sai sứ sang triều cống Trung Quốc. Chế Bồng Nga
bị quân nhà Trần bắn chết tại sông Hoàng Giang vào năm Hồng Vũ thứ 23 (1390),
như vậy thời gian trị vì của vua họ Chế cũng xấp xỉ với vua Minh Thái Tổ. Riêng
các vua nhà Trần nước ta thì một phần yểu mệnh, một phần gặp biến cố nên trong
thời gian này tính có đến 6 đời vua: Dụ Tông, Dương Nhật Lễ, Nghệ Tông, Duệ
Tông, Phế Đế, Thuận Tông.
Nay, thuận theo dòng lịch sử, sự việc được đề cập kể từ khi
vua nhà Minh gửi chiếu thư đầu tiên liên lạc ngoại giao với Chiêm Thành
[Champa] [2] và một số nước khác vào tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ 2:
Ngày 20 tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ 2 [26/2/1369]
Sai Sứ giả mang tờ chiếu lên ngôi dụ các nước Nhật Bản,
Chiêm Thành, Trảo Oa [Ja Va], và Tây Dương. [3] (Minh Thực lục v. 2 , t. 0775;
Thái Tổ q. 38, t. 11a)
Riêng đối với nước Champa thì lúc Sứ giả chuẩn bị ra đi, Chế
Bồng Nga đã nhanh tay cho người đến trước; triều cống:
Ngày 4 tháng 2 năm Hồng Vũ thứ 2 [12/3/1369]
Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai quan là Hổ Đô Man cống
cọp, voi, và sản vật địa phương. (Minh Thực lục v.2 q. 39 t. 0785; Thái Tổ q.
39, t. 2a)
Sứ giả Trung Quốc mang tỷ thư [4] của Minh Thái Tổ gửi cho
các nước. Nội dung tỷ thư nhà Minh tỏ ra ân cần với Champa, Java; riêng đối với
Nhật Bản thì có thái độ rất nghiêm khắc với lời đe dọa nặng nề, do bởi lúc bấy
giờ đám cướp biển người Nhật thường ra vào cướp phá bờ biển Trung Hoa:
Ngày 6 tháng 2 năm Hồng Vũ thứ 2 [14/3/1369]
Sai bọn Ngô Dụng, Nhan Tông Lỗ và Dương Tải đi sứ các nước
Chiêm Thành, Trảo Oa, Nhật Bản.
Ban cho Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả tỷ thư như sau:
“Ngày mồng 4 tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi;
lòng thành của Vương, Trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên lúc Hổ Đô Man chưa tới, Sứ giả
của Trẫm cũng sẵn sàng trên đường đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của Trẫm đến để
báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Quốc bị rợ Hồ [Nguyên Mông]
trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ Trung quốc phong
hóa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Quốc,
thiên hạ bình an. Sợ các Di [5] trong bốn phương chưa biết, nên sai Sứ giả báo
tin cho các nước. Không ngờ Sứ giả nước của Vương tới trước, lòng thành thể hiện
vững vàng, khiến Trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa
là, lụa ỷ [6] dệt kim tuyến; sai người đưa Sứ giả về nước. Lại dụ vương về đạo
[thờ nước lớn], Vương nên phụng thờ coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên
với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu; trời đất soi xét sự
cố gắng, Vương chớ xem thường. Hổ Lao Man và đám tùy tùng cũng được ban lụa là,
lụa ỷ hoa văn, có phân biệt.”
Ban tỷ thư cho Quốc vương nước Trảo Oa như sau:
“Rợ Hồ trộm chiếm nước Trung Hoa chính thống hơn một trăm
năm, cương thường đọa lạc, mũ nón điên đảo. Trẫm khởi binh dẹp chúng suốt 20
năm, đất nước bình định, bèn phụng mệnh trời làm chủ Trung Quốc. Sợ nơi xa xôi
chưa biết tin này, nên sai Đặc sứ báo cho Vương biết. Khi Sứ giả sẵn sàng ra đi,
lại được tin người của Vương là Niết Chỉ Mổ Đinh đến cống nhà Nguyên, lúc về đến
Phúc Kiến thì được tin nhà Nguyên mất, bèn trở lại kinh sư. Trẫm nghĩ y xa Trảo
Oa đã lâu ngày, tất nặng lòng tưởng nhớ, nên sai người đưa trở về. Lại cho một
bản lịch Đại Thống để Vương nhớ ngày Chính Sóc [7] ban tại đây, tất phải chuyên
tâm phụng thờ như đạo trời, để giúp dân Trảo Oa yên ổn trong cuộc sống, Vương
được giữ lộc đời đời, truyền đến con cháu. Hãy gắng chăm lo, chớ coi thường.”
Ban cho Quốc vương Nhật Bản tỷ thư như sau:
“Thượng đế hiếu sinh, ghét kẻ bất nhân. Nhà Triệu Tống xưa
[8] chế ngự sai lầm, để rợ Hồ phương Bắc tràn vào, truyền bá thói tục hôi tanh,
đến nỗi phong hóa trung thổ suy sụp, lòng dạ muôn người ai mà không hưng phẫn?
Từ năm Tân Mão [1351] đến nay, Trung Quốc loạn lạc, bọn giặc Nụy [9] các ngươi
đến cướp tại Sơn Đông, bất quá thừa dịp khi bọn Hồ suy đốn. Trẫm vốn thuộc gia
đình Trung Quốc xưa, hổ thẹn vì vua trước chịu nhục, hưng binh quét sạch rợ Hồ;
ngày đêm quên ăn, lo tính đã hai mươi năm nay. Từ năm ngoái đến nay, bọn giặc
phương bắc diệt hết, lên làm chủ Trung Quốc. Sự việc chưa báo rõ cho các Di bốn
phương, thỉnh thoảng Sơn Đông lại tâu về rằng bọn Nụy mấy lần cướp phá vùng
duyên hải, kẻ chết lìa vợ lìa con, làm tổn thương vật chất và mạng sống. Nay soạn
đặc thư báo quyền chính thống và dụ về việc quân Nụy vượt biển quấy phá. Khi
chiếu thư đến nơi, nếu như muốn làm bề tôi thì hãy dâng biểu đến triều đình; nếu
không chịu thì hãy luyện binh để tự giữ, lo đời đời cho lãnh thổ được bình an để
đối phó với uy trời. Nếu còn cướp phá, Trẫm sẽ mệnh các đạo thủy quân dương buồm
truy bắt sạch tại các đảo, rồi tiến thẳng vào trói Vương nước này, há chẳng phải
là thay trời phạt bất nhân đó ư! Vương hãy lo tính lấy!” (Minh Thực lục v. 2 q.
39 t.0785-0787; Thái Tổ q. 39,t. 2a-3a)
Lúc này chiến tranh đang xẩy ra giữa Đại Việt [10] và
Champa. Chế Bồng Nga bèn sai sứ sang tố cáo với Trung Quốc, do đó vua nhà Minh
sai sứ giả mang thư đến hai nước để dàn hòa:
Ngày mồng 1 tháng Chạp năm Hồng Vũ thứ 2 [30/12/1369]
Sai Hàn lâm Viện Biên tu La Phục Nhân, Chủ sự Bộ binh Trương
Phúc mang chiếu thư dụ An Nam [11] và Chiêm Thành rằng:
“Trẫm vốn xuất thân từ bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi
binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài
năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được thần dân tôn lên làm vua trị
thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều
cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly, rồi Chiêm Thành; tất cả đều
dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến Trẫm rất vui lòng.
Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống,
tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, Trẫm xem tờ trình tâm không được yên.
Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời
không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Quốc hết núi
đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ
ràng cho Trẫm hay. Các ngươi được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an
dân, trên phụng theo đạo trời, tôn kính Trung Quốc; những việc này Vương trước
của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi Trẫm dụ mới biết. Trẫm làm
chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy; nay sai sứ đi quan sát sự việc,
hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua
năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng
lòng; e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không
tránh được. Vương hai nước hãy nghe lời Trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình,
để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư! Khi
chiếu thư tới, hai nước hãy tuân mệnh bãi binh.” (Minh Thực lục v. 3, q. 47, t.
0934-0935)
Tuy vua Minh đã cho Sứ giả đến hòa giải, nhưng sự việc không
dừng tại đó. Vào tháng 3 năm Hồng Vũ thứ 4 (1371) Champa đến cướp phá thành
Thăng Long, vua Nghệ Tông phải đi thuyền sang lánh nạn tại Đông Ngàn, Bắc Ninh.
Bấy giờ thái bình đã lâu, thành quách biên cương không có phòng bị, giặc đến
không có quân nào ngăn được. Chúng đốt trụi cung điện; nhà cửa, thư tịch, sổ
sách do vậy sạch không. [12]
Vừa ăn cướp vừa la làng, 3 tháng sau biến cố này, vua Champa
Chế Bồng Nga lại sai sứ sang Trung Quốc dâng biểu, văn bản được trân trọng khắc
trên vàng lá, tố cáo ta xâm lấn; xin được viện trợ vũ khí, nhạc khí cùng dạy
cho âm nhạc để không còn bị coi thường:
Ngày 25 tháng 7 năm Hồng vũ thứ 4 [5/9/1371]
Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai bầy tôi Đáp Ban Qua
Bốc Nông đến triều đình dâng biểu về việc An Nam xâm lấn đất. Biểu viết trên
vàng lá, dài hơn 1 xích, bề ngang 5 thốn [13] , bằng chữ nước này, dịch ý như
sau:
“Hoàng đế Đại Minh lên ngôi cao quí, chức vị coi sóc bốn biển,
như trời đất che chở; mặt trời, mặt trăng soi sáng. Ha Đáp Ha Giả chỉ đáng là một
cây cỏ mà thôi, được ơn Hoàng đế ban cho ấn vàng, phong làm Quốc vương; lòng
trung thành hân hoan đội ơn vạn bội. Duy việc An Nam dùng binh xâm nhiễu bờ
cõi, giết bắt quan lại nhân dân; nguyện được Bệ hạ nghĩ đến ban cho binh khí,
nhạc khí, chuyên viên về âm nhạc; khiến An Nam biết Chiêm Thành được trang bị
thanh giáo, là nước triều cống Trung Quốc, thì An Nam không dám khinh thường.”
Thiên tử cảm động bởi lòng mong muốn, nên khi Đáp Ban Qua Bốc
Nông từ giã bệ rồng, bèn ra lệnh cho Trung Thư tỉnh [14] chuyển văn thư cho
viên Quốc vương như sau:
“Lân quốc giao thiệp, đạo lý là phương sách hay để giữ đất,
thờ nước lớn tận lòng thành để làm trọn lễ của bề tôi. Vả lại Chiêm Thành và An
Nam đã là bề tôi thờ triều đình, cùng phụng thừa lịch Chính Sóc, lại gây việc
binh khiến độc hại sinh linh, đã trái lễ phụng sự bề trên, lại sai đường giao hảo
giữa lân bang. Đã báo cho Quốc vương An Nam bãi binh ngay, bản quốc cũng nên để
hai bên tôn trọng giữ gìn cương thổ. Việc xin Thiên tử binh khí thì nào có tiếc
gì, nhưng Chiêm Thành và An Nam đang tranh chấp, mà triều đình lại cho riêng
Chiêm Thành, là giúp ngươi đánh nhau, rất trái với đạo chiêu an. Việc xin nhạc
khí và chuyên viên âm nhạc, thì về thanh luật Trung Quốc và nước ngoài không
khác, nhưng về ngữ âm thì có sự sai biệt giữa Hoa và Di, như vậy khó có thể điều
khiển. Nếu nước ngươi có kẻ tập nói được tiếng Hoa, có thể dạy cho âm luật; hãy
tuyển chọn một số người đến kinh đô học tập.”
Lại dụ Hành Tỉnh [15] Phúc Kiến nếu thuyền bè Chiêm Thành
ghé bờ thì cho miễn thuế, để tỏ ý mềm dẻo quyến luyến. (Minh Thực lục v. 3, q.
67, trang 1260-1261)
Quân đội Champa kể từ thời Chế Bồng Nga, được cải cách rèn
luyện nên khá hùng hậu. Đại Việt Sử ký Toàn thư nhận xét như sau:
“Chiêm Thành từ thời [Tiền] Lê, Lý tới đây, quân lính hèn
nhát, hễ quân ta đến là đem cả nhà chạy trốn hoặc họp nhau khóc lóc xin hàng. Đến
đời Bồng Nga, La Ngai mới tập hợp dân họ lại bảo ban dạy dỗ, thay đổi dần thói
cũ, trở nên can đảm, hăng hái, chịu được gian khổ, nên thường hay sang cướp, trở
thành tai họa của nước ta.” [16]
Không chỉ cướp phá Đại Việt mà thôi, hải quân của Champa còn
vươn ra hoạt động tận biển Đông, bắt dùm bọn cướp biển cho Trung Quốc [17] :
Ngày 12 tháng Một năm Hồng Vũ thứ 6 [26/11/1373]
Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai bọn bầy tôi Dương Bảo
Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán dâng biểu, cống phương vật. Lại tâu rằng bọn giặc
bể Trương Nhữ Hậu, Lâm Phúc tự xưng là Nguyên soái cướp phá trên biển, bị Quốc
vương đánh bại. Bọn Nhữ Hậu bị chết trôi. Bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn
cân tô mộc, cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ đem đến hiến. Thiên tử vui lòng, mệnh ban
cho Vương nước này 40 tấm lụa là, văn ỷ; cho Sứ giả 2 tấm lụa là, 4 tấm văn ỷ,
1 bộ y phục, 1 vạn 2 ngàn đồng tiền; những người đi theo được ban thưởng có
phân biệt. (Minh Thực lục v. 4, q. 84, t. 1505)
Vết thương nhức nhối cho các triều đại nhà Minh là nạn cướp
biển hoành hành, cầm đầu bởi người Nhật mà sử Trung Quốc gọi là giặc Nụy (Nụy
khấu). Liên hệ đến văn học nước ta, ngay cuộc đời thực của anh hùng Từ Hải
trong Truyện Kiều cũng đã từng tham gia “giặc Nụy”. Giặc Nụy hoành hành tại biển
Đông và vùng duyên hải từ cuối đời Nguyên cho đến triều Minh; bởi vậy, việc nước
Champa trực tiếp tham gia vào việc đánh cướp biển, phải được vua Minh Thái Tổ đặc
biệt o bế:
Ngày 4 tháng 8 năm Hồng Vũ thứ 7 [11/9/1374]
Thiên tử phán bảo quan Trung thư Tỉnh rằng: “Mùa thu năm
ngoái Quốc vương Chiêm Thành sai sứ là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán
đến cống; đáp lại, chỉ ban cho lụa văn ỷ, lụa là; còn công bắt giặc thì chưa
thưởng. Nay gần ngày sứ trở về nước, có thể sai người mang đồ vật đem cho. Liền
sai Tuyên sứ Kim Cừ mang rượu Thượng Tôn, cùng 24 tấm lụa văn ỷ dệt kim tuyến,
lụa là, đến Quảng Đông giao cho sứ nước này là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt
Văn Đán mang về để tặng Quốc vương. (Minh Thực lục v. 4, t.1607-1608; Thái Tổ
q. 92,t. 4a-4b)
Lúc này Quốc vương Chế Bồng Nga muốn Trung Quốc biết rõ hơn
về sức mạnh của Champa, nên đã sai sứ sang tâu về việc đánh thắng Đại Việt:
Ngày 12 tháng Một năm Hồng Vũ thứ 6 [26/11/1373]
Nước Chiêm Thành sai sứ tâu: An Nam dùng binh xâm lăng, nước
thần nhờ uy linh của thiên triều, đánh bại chúng tại biên giới. Nay kính cẩn
sai sứ báo tin chiến thắng.
Thiên tử nói với các quan tại Trung thư Tỉnh rằng:
“Các nước hải ngoại cách trở núi biển, mỗi nước lo tự phòng
thủ biên giới, lâu lâu mới đến triều đình. Năm ngoái An Nam dâng biểu tâu rằng
Chiêm Thành xâm phạm biên giới, năm nay Chiêm Thành lại tâu tiếp là An Nam quấy
nhiễu biên cương. Hai nước đều thờ triều đình, không xét được hai bên ai đúng
ai sai. Nay sai người đến dụ hai bên nên bãi binh để yên dân, không được xâm lấn
lẫn nhau.”
Vẫn ban cho Quốc vương Chiêm Thành cùng Sứ giả lụa văn ỷ, rồi
sai trở về nước. (Minh Thực lục v. 4, q. 86, t. 1524-1525)
Tình trạng quân Champa quấy phá tại Đại Việt khá trầm trọng
và lâu dài, đến nỗi bọn Sứ thần nhà Minh mượn đường nước ta đi sứ Miến Điện
[Myanma], phải kẹt lại đến 2 năm trời:
Ngày 18 tháng Một nhuận năm Hồng Vũ thứ 6 [1/1/1374]
Bọn Điền Nghiễm đi sứ nước Miến nhưng không đến nơi, bèn trở
về.
Nước Miến tại vùng tây nam Vân Nam; giáp giới với nước Bát
Bách [18] và nước Chiêm Thành, còn được gọi là Miến Điện. Đời Nguyên rất thịnh,
sau khi bình Thịnh Lộc Xuyên [19] , nước Miến bèn phụ thuộc.
Thiên tử nghe rằng nước này từng nạp cống cho nhà Nguyên,
nên sai Điền Nghiễm, cùng Trình Đẩu Nam, Trương Vỉ, Tiền Cửu Cung mang chiếu
thư đi sứ. Bọn Nghiễm đến An Nam, gặp lúc Chiêm Thành mang binh đến tấn công,
đường trở ngại không lưu thông, phải lưu lại 2 năm tại đây, không tiến được.
Ban chiếu gọi trở về, chỉ con Nghiễm về được còn những người khác chết trên đường.
(Minh Thực lục v. 4, q. 1534)
Thời gian tương tự như được ghi trong “Đại Việt Sử ký Toàn
thư”, “Minh Thực lục” chép về việc vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận tại
Champa:
Ngày 28 tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ 10 [8/3/1377]
Trần Đoan [vua Trần Duệ Tông] nước An Nam mang binh giao
tranh với Chiêm thành, bị đại bại tại đất Chiêm Thành. Đoan tử trận. (Minh Thực
lục v. 5, t. 1842)
Champa chiến thắng càng lừng lẫy bao nhiêu, càng được vua
nhà Minh o bế bấy nhiêu. Tuy Thiên tử Trung Quốc vẫn còn ban những lời hòa giải
lấy lệ, nhưng đặc biệt tặng riêng cho vua Chế Bồng Nga y phục dát vàng, chứng tỏ
sự sủng ái đặc biệt:
Ngày 1 tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 12 [10/11/1379]
Sai sứ ban cho Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả lịch Đại
Thống, y phục văn ỷ dát vàng, lụa là; lại ban tỷ thư dụ rằng:
“Đạo của Đế Vương đối xử cùng chung một lòng nhân, nên cũng
muốn nơi hải ngoại được yên ổn vô sự. Chiêm Thành vị trí tại phía tây nam, cách
biển, cách núi; nhưng biết lấy lễ bầy tôi phụng sự Trung Quốc, mấy lần cống
phương vật. Mới đây sai sứ cống voi, lòng thành đáng khen. Trong tờ biểu tâu rằng
vẫn còn giao tranh với An Nam, đến nay vẫn chưa chấm dứt. Tuy nhiên Chiêm Thành
và An Nam cương giới đã định từ xưa, mỗi nước nên giữ đất an dân, chớ nên tranh
dành, đạo trời vốn ghét, không thể không lấy làm răn, Nay ban cho khanh y phục
thêu rồng vàng, ngựa tốt. Khi vật đưa đến, hãy nhận lấy. (Minh Thực lục v. 5,
t.2017)
Sự hợp tác giữa Trung Quốc và Champa có phần chặt chẽ hơn,
qua sự kiện vua Minh Thái Tổ ra lệnh cho Quảng Đông, Phúc Kiến chuẩn bị mấy
trăm chiếc thuyền để đến Champa bắt bọn “giặc Nụy”. Việc này chứng tỏ lúc bấy
giờ Chế Bồng Nga ngoài việc xâm lăng nước ta, còn sử dụng thủy quân vươn ra
ngoài biển Đông gây hấn với cả người Nhật Bản:
Ngày 12 tháng 6 nhuận năm Hồng Vũ thứ 20 [27/7/1387]
Sắc cho Đô Chỉ huy Sứ ty [20] Phúc Kiến tạo 100 chiếc thuyền
đi biển; Quảng Đông chế tạo gấp bội số này, trang bị đầy đủ khí giới và lương
thực tập trung tại Chiết Giang để chuẩn bị đến Chiêm Thành bắt bọn giặc Nụy.
(Minh Thực lục V. 6, t. 2752; Thái Tổ q. 182, t. 7b)
Sử dụng quân thủy, quân bộ, gặt hái được nhiều chiến thắng;
Chế Bồng Nga tỏ ra kiêu mạn “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, coi thường
ngay cả Trung Quốc. Qua một sắc dụ nhắm uốn nắn đứa con kiêu [21] của Thiên tử,
Minh Thái Tổ vạch cho Chế Bồng Nga biết rằng y nói một đường làm một nẻo, giả
làm đảng cướp ăn chặn số voi nước Chân Lạp [Campuchia] cống Trung Quốc và cố
tình lơ là trong việc triều cống:
Ngày 8 tháng 4 năm Hồng Vũ thứ 21 [14/5/1388]
Sai Hành nhân Đổng Thiệu đến dụ Quốc vương Chiêm Thành Ha
Đáp Ha Giả rằng:
“Ngươi sống tại nơi hải đảo, hiệu lệnh cho dân Di dưới quyền,
nếu không dùng ân và tín để cai trị nuôi dạy dân chúng, thì làm sao có thể làm
chủ một phương, truyền cho con cháu, giữ được không có mối lo. Mới đây ngươi
sai con đến triều đình, ta sai Trung sứ đưa về nước; rồi viên sứ này trở về
trình rằng hành động của ngươi trái với điển lệ. Lúc đầu Trẫm chưa tin, đến lúc
Ma Lâm Cơ trình bày việc trong nước ngươi, đem so sánh thấy lời trên thật đáng
tin, không phải là vu cáo.”
Tháng 4 năm nay lại được An Nam tâu như sau:
“Hành Nhân Lưu Mẫn trên đường ra khỏi Chiêm Thành đưa 52 con
voi do Chân Lạp cống; Chiêm Thành sai người giả làm kẻ cướp đoạt mất ¼ số voi
cùng bắt 15 tên quản tượng.
Ta biết rằng ngươi là Di phương nam; nhưng không nghĩ rằng
ngươi vừa tôn kính Trung Quốc, lại lấy việc cướp cướp bóc làm nghề nghiệp. Dù rằng
hàng ngày ngươi cướp bóc làm điều bất nghĩa, thì cũng phải biết kẻ lớn người nhỏ,
kẻ trên người dưới! Há lại đứng đầu một nước lại dám buông tuồng khinh lờn
Thiên tử. Như năm ngoái ngươi dâng voi và 2 người quản tượng; từ khi cho con
ngươi trở về, thì trốn tránh không dâng tiếp! Việc làm của ngươi cứ tiếp tục
như vậy thì một đàng không có lòng thờ nước lớn, một đàng thì mất sự tín nghĩa
để giao thiệp với lân quốc; ngươi phải suy nghĩ sửa đổi, chớ để hối về sau.”
(Minh Thực lục V. 7, t. 2864-2865; Thái Tổ q. 190, t. 1b-2a)
Cuối đời, tuy Chế Bồng Nga chết trước họng súng của quân nhà
Trần, nhưng người chỉ điểm là một viên quan nhỏ Champa chạy sang trại quân ta,
cho biết chiếc thuyền sơn xanh là thuyền của Quốc vương hắn [22] . Rồi Thủ tướng
La Ngai [23] cho hỏa táng xác Chế Bồng Nga bên bờ sông, mang quân Champa trở về
chiếm nước, tự lên làm vua. Con và em Chế Bồng Nga sợ bị giết, phải chạy sang
nước ta lánh nạn. [24]
Tấn bi kịch này được dàn dựng bởi kẻ nội thù; thủ phạm chính
là La Ngai [25] , sử Tàu gọi là Các Thắng (Ko Cheng). Một văn bản trong Minh Thực
lục chép rằng, sau khi lên làm vua, Các Thắng sai sứ sang Trung Quốc dâng biểu
bằng vàng tiến cống, nhưng bị vua Thái Tổ nhà Minh cự tuyệt bởi tội mưu giết
vương nước này để lên làm vua:
Ngày 7 tháng Một năm Hồng Vũ thứ 24 [2/12/1391]
Nước Chiêm Thành sai viên Thái sư Đào Bảo Gia Trực dâng biểu
bằng vàng, tiến cống tê giác, nô tỳ, vải vóc. Thiên tử bảo các quan bộ Lễ rằng:
“Đây do viên quan soán nghịch! Đồ tiến cống đừng nhận. Trước
đây viên quan Chiêm Thành là Các Thắng giết Vương nước này tự lập, nên cự tuyệt.”
(Minh Thực lục v. 7, t. 3157; Thái Tổ q.214, t. 1a)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét