Tuy
Nhật Bản không phải là quốc gia iên quan trực tiếp nhưng Biển Đông có
vai trò quan trọng trong tuyến hàng hải huyết mạch trên biển từ Trung
Đông đến lãnh hải Nhật Bản. Do vậy, trong thời gian gần đây Nhật Bản
liên tục thể hiện quan điểm kiên quyết, nhất quán về vấn đề Biển Đông và
tạo ra những thách thức mới cho Trung Quốc.
Về
tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông,
Nhật Bản là quốc gia không liên quan đến trực tiếp, tuy nhiên Biển Đông
có vai trò quan trọng trong tuyến hàng hải huyết mạch trên biển từ Trung
Đông đến lãnh hải Nhật Bản. Do vậy, trong thời gian gần đây Nhật Bản
liên tục thể hiện quan điểm kiên quyết, nhất quán về vấn đề Biển Đông và
tạo ra những thách thức mới cho Trung Quốc, đặc biệt là việc triển khai
hoạt động bảo vệ quyền lợi biển và xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI của nước này. Mục đích
của bài viết sẽ góp phần làm rõ hơn sự can dự của Nhật Bản vào vấn đề
Biển Đông và tác động của việc can dự đối với Trung Quốc trong quá trình
triển khai thực hiện chiến lược cường quốc biển.
Quan điểm và mục tiêu của Nhật Bản đối với Biển Đông
Quan
điểm và mục tiêu xuyên suốt của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là
duy trì hòa bình, đảm bảo an ninh tự do hàng hải quốc tế. Các
phương tiện truyền thông toàn cầu đưa tin về các hoạt động cải tạo đất
đơn phương của Trung Quốc ở Trường Sa đã khiến Nhật Bản tỏ rõ thái độ
của mình. Chính phủ Nhật Bản đã nhanh chóng xác định các hành động của
Trung Quốc là vi phạm UNCLOS và coi chính sách của Trung Quốc ở Biển
Đông là một nỗ lực nhằm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực. Nhật Bản cũng
ủng hộ lập trường của Mỹ đối với các hành động phiêu lưu mạo hiểm quyết
đoán của Trung Quốc ở Biển Đông và các hoạt động thực hiện quyền tự do
hàng hải của Mỹ. Bất chấp những giới hạn quân sự của nước này, Nhật Bản
có thể tiến hành một số hành động hỗ trợ sự ổn định ở Biển Đông. Mọi
bất đồng mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền trên biển phải được giải
quyết dựa trên luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế bằng biện pháp hòa
bình.[1]
Quan điểm của Nhật Bản về Biển Đông
Ngày
12/7/2016, sau khi Tòa án trọng tài Biển Đông ra phán quyết về vụ kiện
Philippines với Trung Quốc liên quan tới tranh chấp ở Biển Đông, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Fumio Kishida ra tuyên bố, phán quyết của
PCA là phán quyết cuối cùng và mang tính ràng buộc pháp lý, theo đó các
bên liên quan phải tuân thủ phán quyết này. Ngoại trưởng Kishida nêu rõ:
“Nhật Bản kiên định ủng hộ việc tôn trọng quy định luật pháp và sử dụng
các biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong
giải quyết các tranh chấp trên biển”.
Ngoài
ra, trong cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị bên lề
Hội nghị AMM 49, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida đã hối thúc Bắc
Kinh chấp nhận và tuân thủ phán quyết của PCA, đồng thời bày tỏ quan
ngại của Nhật Bản về tình hình Biển Đông hiện nay, hy vọng Trung Quốc sẽ
tránh những hành động có thể làm leo thang căng thẳng tại vùng biển
tranh chấp. Sách Trắng quốc phòng Nhật Bản năm 2016 nêu rõ các hoạt động
hiện tại của Trung Quốc tại Biển Đông là cậy quyền, hành động đơn
phương, hướng tới việc đặt các nước vào việc đã rồi trên vùng biển đang có sự tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Mục tiêu cơ bản của Nhật Bản đối với Biển Đông
Thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông: Thực tế cho thấy, Nhật Bản đã đưa ra lời kêu gọi các bên thực hiện nghiêm quyền tự do hàng hải, hàng không
trên Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống sự xâm phạm chủ
quyền của Trung Quốc tại các đảo, bãi đá, thúc đẩy ASEAN hóa, quốc tế
hóa vấn đề Biển Đông. Trong những chuyến thăm đến các nước ASEAN, Thủ
tướng Nhật Bản Shinzo Abe, đều chủ động thảo luận các vấn đề tự do hàng
hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển Đông. Trong quan hệ
ngoại giao với một số nước có liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán với Trung Quốc như Philippines, Việt Nam,
Indonesia…, Nhật Bản đều kêu gọi xây dựng mạng lưới quan hệ với mắt xích
là vấn đề biển. Ngoài các nước ASEAN, trong quan hệ với các nước có
chung lợi ích trên Biển Đông như Australia, Ấn Độ, Anh…, Nhật Bản luôn
tìm sự đồng thuận thông qua việc chia sẻ các giá trị như tự do, dân chủ,
pháp chế. Ngoài quan hệ song phương, gần như trong mọi diễn đàn quốc tế
có thể tận dụng, Nhật Bản đều cố gắng thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển
Đông. Trong hội nghị G7, G20, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), hội nghị
giữa Nhật Bản và các nước châu Á - Thái Bình Dương, Nhật Bản đưa vấn đề bảo vệ luật quốc tế[2], bảo vệ tự do hàng hải, hàng không
để đưa tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển
Đông vào chương trình hội nghị. Đồng thời lên tiếng yêu cầu các nước
liên quan xác định rõ quyền lợi biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc
tế, ủng hộ việc nhanh chóng đề ra Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông
- COC, phê phán hoạt động bồi lấp và xây dựng hạ tầng của Trung Quốc
tại một số đảo đá ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Giúp các nước ASEAN đòi quyền lợi, nâng cao năng lực phòng thủ trên biển:
Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ trang bị cho các nước liên quan trực tiếp
tranh chấp ở Biển Đông như Việt Nam, Philippines tăng cường khả năng
cảnh báo trên biển của các nước này, xây dựng lực lượng tiền duyên kiềm
chế Trung Quốc. Philippines đang chú trọng tăng cường sức mạnh hải quân
bằng cách nhập khẩu và cải tiến vũ khí trang bị. Tháng 3 năm 2011,
Philippines mua của Mỹ 2 tàu tuần tra cỡ lớn lớp Hamilton,
sau khi được cải tiến đã có khả năng của tàu khu trục, nâng cao năng
lực của tác chiến biển gần của Philippines. Ngoài ra, lực lượng Hải quân
Philippines có kế hoạch đạt mua 4 tàu hộ vệ chống ngầm hạng nhẹ 2.000
tấn và đang xem xét đặt mua tàu ngầm để tăng binh lực dưới nước. Dự án
được ưu tiên nhất hiện nay của Hải quân Philippines là chế tạo 2 chiếc
tàu hộ vệ kiểu mới, đã có nhiều nước bày tỏ sự quan tâm đến dự án này.
Theo báo cáo, chính phủ Philippines sẽ dành khoản ngân sách 1,73 tỷ USD
để mua sắm tàu chiến kiểu mới. Một dự án khác đang trong giai đoạn
nghiên cứu là nâng cấp tàu tuần tra Haminton được trang bị tên lửa chống hạm, dự kiến sẽ sử dụng tên lửa Harpoon của hãng Boeing. Một khi dự án được hoàn thành thì
hiệu quả tác chiến của tàu chiến Philippines sẽ được nâng lên rất lớn
trong khu vực[3]. (cần có đánh giá thêm).
Trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á-Đối thoại Shangri-La năm 2014,
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố, phải chi viện
trên thực tế để Việt Nam, Philippines, Malaysia xây dựng năng lực quân
sự trên biển. Nhằm nâng cao khả năng phòng thủ biển của các nước ASEAN,
Nhật Bản đã kết hợp các khoản hỗ trợ như viện trợ phát triển chính thức -
ODA, đào tạo nâng cao khả năng do Lực lượng phòng vệ Nhật Bảng – (SDF)
tổ chức, hợp tác về trang bị phòng thủ, để không ngừng trợ giúp các nước
này. Mặt khác, Nhật Bản thông qua các hình thức huấn luyện, diễn tập
quân sự chung với các nước ASEAN để nâng cao khả năng quân sự của các
nước này và giúp cho quân đội Nhật Bản thông thạo tình hình thực tế
trong khu vực Biển Đông, nhằm thử nghiệm cho việc tuần tra, giám sát của
Nhật Bản tại khu vực biển này. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2015, tàu
chiến của Nhật Bản và Philippines nhiều lần tiến hành diễn tập chung tại
vùng biển của Philippines. Tháng 8 năm 2015, Nhật Bản, Mỹ và
Philippines tiến hành diễn tập cứu trợ nhân đạo tại vịnh Subic. Đối với
Việt Nam, tháng 5 năm 2015 đã có 02 máy bay tuần tra trên biển P-3C của
Nhật Bản lần đầu đến Đà Nẵng, tháng 11 năm 2015 Việt Nam và Nhật Bản đã
đạt được nhận thức chung về việc tàu chiến của Nhật Bản có thể cập cảng
Cam Ranh. Gần đây nhất, ngày 20/5/2017, tàu khu trục của Nhật Bản
Sazanami 113 với khả năng phòng không, săn ngầm và chống tàu chiến mặt
nước đối phương - đã cập cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) tham gia chương trình
Đối tác Thái Bình Dương.
Củng cố mối quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ: Nhật Bản coi quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ là khuôn khổ cơ chế hợp pháp cho việc can dự quân sự vào Biển Đông (Tuy nhiên,
xét trên phương diện là đồng minh chiến lược, Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản
trong bất kỳ tình huống nào, nếu Nhật Bản bị tấn công. Vấn đề Biển Đông
Mỹ và Nhật Bản có chung quan điểm là duy trì tự do hàng hải và hàng
không quốc tế, giải quyết tranh chấp băng biện pháp hòa bình. Chiến lược bảo đảm an ninh quốc gia
của Nhật Bản chỉ rõ: Thắt chặt quan hệ đồng minh với Mỹ thông qua việc
sửa đổi Văn bản Chỉ đạo hợp tác quốc phòng Nhật Bản - Mỹ vào tháng
4/2015, với cơ chế mới tăng cường sự phối hợp một cách toàn diện, trong
đó có cả việc đánh giá môi trường an ninh, lên kế hoạch ứng phó với mọi
tình huống và kế hoạch phối hợp hành động thực tế, đồng thời mở rộng
phương diện và phạm vi hợp tác quốc phòng. Bên cạnh đó, Nhật Bản khẳng định ủng hộ chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại châu Á. Ngay trước thềm chuyến thăm châu Á của Ngoại trưởng Rex Tillerson, chính quyền Trump
tuyên bố chính sách tái cân bằng hay xoay trục của Mỹ tại khu vực sẽ có
công thức mới. Xoay trục, tái cân bằng… đó là cụm từ được dùng để mô tả
chính sách châu Á của chính quyền cũ. Tôi nghĩ các bạn có thể kỳ vọng
chính quyền mới sẽ có công thức riêng, quyền trợ lý ngoại trưởng phụ
trách Đông Á - Thái Bình Dương Susan Thornton phát biểu trong cuộc họp
báo hôm 14/3/2017.Tuy nhiên, thực tế cho thấy chiến lược mới vẫn chưa
được thảo luận chi tiết, thậm chí chính quyền Tổng thống Trump vẫn chưa
hoàn toàn chắc chắn sẽ tìm ra công thức riêng.
Do
đó, đảm bảo an ninh tự do hàng hải và và hàng không trên Biển Đông là
vấn đề cơ bản, không để bất cứ một thế lực nào tuyên bố vũng nhận diện
phòng không[4] và đe dọa đến tự do hàng hải
quốc tế. Sự phối hợp và hợp tác Nhật - Mỹ trong vấn đề Biển Đông còn
biểu hiện ở việc giúp đỡ các nước hữu quan xây dựng năng lực phòng thủ.
Ví dụ, nhằm giúp Philippines nâng cao khả năng đối phó với Trung Quốc
trên biển, hai nước phân công rõ ràng, Mỹ chịu trách nhiệm cung cấp vũ
khí, trang bị cho lực lượng vũ trang Philippines, Nhật Bản cung cấp
trang bị cho lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines.
Giành thế chủ động trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc trên nhiều phương diện: Nhật
Bản và Trung Quốc có tranh chấp lâu dài ở Biển Hoa Đông đặc biệt là
quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản cho rằng, nếu Trung Quốc kiểm soát
được Biển Đông thì sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đối với tranh chấp quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư. Mục đích chiến lược của Nhật Bản là hình thành thế
phối hợp tác chiến hai cánh Biển Đông và Biển Hoa Đông, gây cản trở cho
Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp trên biển Hoa Đông. Bên
cạnh đó, Nhật Bản cũng mong muốn việc hỗ trợ các nước ASEAN đòi quyền
lợi ở Biển Đông, để đổi lại sự ủng hộ của các nước này đối với Nhật Bản
trong vấn đề Biển Hoa Đông. Tạo mối liên kết giữa với các nước Đông Nam Á
trong vấn đề tranh chấp trên biển, Nhật Bản muốn Trung Quốc phải đối
phó đồng thời trên cả hai mặt trận
Biển Hoa Đông và Biển Đông. Đồng thời đây cũng được cho là hành động
kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực vàtrên thế giới. Nhật
Bản muốn nhân vấn đề Biển Đông, tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước ASEAN đòi
quyền lợi ở Biển Đông, đẩy mạnh viện trợ cho các nước này về kinh tế và
quân sự, qua đó nâng cao hơn nữa ảnh hưởng của mình trong khu vực, từng
bước gia tăng sự phụ thuộc chiến lược của các nước vào Nhật Bản, qua đó
xây dựng liên minh chiến lược biển do Nhật Bản dẫn dắt để đối phó với
Trung Quốc. Nhật Bản xác định tầm quan trọng của Biển Đông và thực hiện
hợp tác an ninh truyền thống đối với các nước ASEAN, nhất là các nước
xung quanh Biển Đông, chính vì vậy, ngày 01/7/2014, Chính phủ Nhật Bản
thông qua Nghị quyết dỡ bỏ những rào cản Hiến pháp từng ngăn quân đội
nước này tham chiến ở nước ngoài kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Động thái này của Nội các Nhật Bản cho phép nước này thực thi quyền
phòng vệ tập thể hoặc hỗ trợ các quốc gia có quan hệ gần gủi khi bị tấn
công. Bộ quốc phòng Nhật Bản sẵn sàng cử lực lượng hỗ trợ quân đội các
nước ASEAN xây dựng năng lực để có thể kiềm chế việc Trung Quốc không
ngừng đẩy mạnh hoạt động tại Biển Đông[5].
Nâng
cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á: Một mục
tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông chính là
tăng cường sự ảnh hưởng của nước này vào khu vực Biển Đông, nâng cao
quyền phát ngôn và khả năng can dự của mình đối với cục diện an ninh khu
vực, xây dựng hình ảnh nước lớn ở khu vực. Những năm qua, cùng với sự
đột phá không ngừng của Nhật Bản đối với hiến pháp hòa bình, đặc biệt là
sau khi nới lỏng nguyên tắc xuất khẩu vũ khí, Nhật Bản đã tích cực bán
vũ khí cho các nước Đông Nam Á, một mặt nâng cao thực lực quân sự của
nước này, giúp đối phó với Trung Quốc đang không ngừng trỗi dậy, mặt
khác thông qua việc bán vũ khí, không ngừng củng cố, nâng cao vị thế và
tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực này.
Phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á[6], Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế. Thủ tướng Shinzo Abe cho rằng:
“Trong nhiều tháng trở lại đây, trên Biển Đông và Hoa Đông, tôi lo ngại
sâu sắc về những hoạt động đơn phương thay đổi hiện trạng tiếp tục diễn
ra. Kiểm soát theo luật là nguyên tắc chung phải được quán triệt trong
cộng đồng quốc tế, các bên liên quan cần kiềm chế các hành động gia tăng
căng thẳng khu vực, nên theo đuổi giải quyết hòa bình dựa trên luật
pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế
năm 1982.”
Biện pháp can dự của Nhật Bản vào khu vực Biển Đông
Để
duy trì hòa bình ở Biển Đông - khu vực mà Nhật Bản có lợi ích chiến
lược trên nhiều phương diện nhất là kinh tế, Nhật Bản đã thực hiện nhiều
biện pháp can dự vào vấn đề Biển Đông nhằm thực hiện được mục tiêu,
quan điểm của mình đối với khu vực Biển Đông đó là đảm bảo sự ổn định
hòa bình, đảm bảo an ninh tự do hàng hải và hàng không theo luật pháp
quốc tế, các bên liên quan không được đơn phương dùng vũ lực để giải
quyết tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Mở rộng sự hiện diện và củng cố quan hệ quốc phòng
Đầu
tiên, Nhật Bản mở rộng sự hiện diện thông qua các sáng kiến như: Lực
lượng hải quân phòng vệ Nhật Bản (JMDF) tới thăm các quốc gia thành viên
ASEAN hoặc tham gia các cuộc tập trận song phương, đa phương. Trong
tháng 3 năm 2016, một tàu của JMDF đã cập cảng Malaysia để tham gia
những đợ tập trận huấn luyện thân thiện với lực lượng hải quân Malaysia.
Tiếp theo, tháng 4 năm 2016 tàu ngầm Oyashio cùng tàu khu trục Ariake
và Setogiri đã cập cảng tại Vịnh Subic của Philippines trong chuyến thăm
đầu tiên trong vòng 15 năm qua. Tiếp đó, Ariake và Setogiri cũng lần
đầu tiên tới Vịnh Cam Ranh của Việt Nam. Trong khoảng thời gian đó, tàu
khu trục cỡ lớn Ise lần đầu tiên vượt qua Biển Đông, tham gia hoạt động
đánh giá các hạm đội quốc tế và tập trận đa phương ở vùng biển của
Indonesia.
Ngày
13/7/2016, cuộc tập trận chung giữa Cảnh sát biển Nhật Bả (JCG) và Cảnh
sát biển của Philippines ( PCG) đã diễn ra ngoài khơi vịnh Manila, đúng
một ngày sau khi PCA công bố phán quyết về việc Philippines khởi kiện
Trung Quốc về những tuyên bố chủ quyền phi lý tại Biển Đông. Dù quan
điểm của hai nước về cuộc tập trận là không nhằm vào Trung Quốc và vấn
đề Biển Đông, nhưng tính thời điểm của nó cho thấy rõ ràng đây là một
phản ứng có liên quan. Bên cạnh đó, JMDF cũng đã tham gia tập trận cùng
Mỹ và Australia vào tháng 2 năm 2016 ở vùng biển của Singapore, tháng 4
năm 2016 ở vùng biển lân cận của Indonesia.
Thực
tế cho thấy, Nhật Bản cũng đang tiến hành các bước đi nhằm tăng cường
sự hiện diện ở trong khu vực thông qua các hoạt động khác như tham gia
các khuôn khổ đa phương. Điển hình là việc Nhật Bản đã cử một đội ngũ
khá lớn Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham gia vào cuộc tập trận an ninh
hàng hải chung được tổ chức bởi Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở
rộng (ADMM+) diễn ra ở vùng
biển và không phận giữa Brunei và Singapore. Ngoài việc mở rộng sự hiện
diện, Nhật Bản còn tăng cường quan hệ đối tác với các nước ASEAN thông
qua hỗ trợ xây dựng năng lực và hợp tác về thiết bị quốc phòng. Trong
bài phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tại Washington ngày 15/9/2016 Bộ trưởng Quốc phòng Nhật
Bản Tomoni Inada cho biết, Nhật Bản sẽ tăng cường can dự vào Biển Đông
thông qua việc tuần tra chung với Mỹ và tập trận song phương, đa phương
với các nước trong khu vực.
Hỗ trợ vũ khí và trang bị cho các nước trong khu vực
Nhật Bản quyết định thông qua viện trợ ODA để cung cấp
cho Philippines 12 tàu chiến, trong đó có tàu tuần tra cở lớn 1.000
tấn, nhằm giúp Philippines nâng cao năng lực bảo vệ trên biển. Tháng 7/2016, Nhật Bản cũng lần đầu tiên hỗ trợ Philippines bảo trì động cơ diesel cho tàu hải quân. Ngày 18/8/2016, Philippines đã nhận được 10 tàu tuần duyên của Nhật Bản.
Ngày
31/7/2014, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định cung cấp cho Việt Nam 6 tàu
trong đó gồm 02 tàu kiểm ngư của Cơ quan Ngư nghiệp Nhật Bản và 04 tàu
còn lại là tàu đánh cá thương mại, theo như một phần trong gói viện trợ
không hoàn lại. Ngoài ra, Nhật Bản cũng sẽ cung cấp xuồng cứu sinh và
các trang bị, thiết bị khác, trị giá 500 triệu yên cho Việt Nam. Như
vậy, Với
Việt Nam, ngoài việc chuyển giao 6 tàu đã qua sử dụng, Nhật Bản còn
tiến hành đàm phán về việc cung cấp tàu mới cho Hải quân Việt Nam trong
tương lai gần. Đề nghị cập nhật thêm đến tháng 7/2017: Tại Lễ kỷ niệm 63
năm ngày thành lập Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tối ngày 07/7/2017, Đại
sứ Đặc mệnh Toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam Kunio Umede nhấn mạnh tháng
6 năm nay, tại Hội đàm cấp cao giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ
tướng Shinzo Abe, hai nước đã khẳng định tăng
cường phối hợp hơn nữa trên cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh với tư cách
là các đối tác tin cậy cùng chia sẻ nhiều lợi ích chiến lược chung.
Nhật Bản và Việt Nam đã và đang triển khai các nội dung hợp tác sâu rộng
trên các lĩnh vực như trao đổi đoàn cấp cao, nhất là đoàn Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, tham vấn cán bộ thực hiện, hỗ trợ nâng cao năng lực, hợp tác
trang bị, công nghệ quốc phòng.
Tác động đối với Trung Quốc
Trong
xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh và vừa kiềm chế lẫn nhau, thì quan
điểm của Nhật Bản đối với Biển Đông sẽ có những tác động nhất định đối
với Trung Quốc trên nhiều giác độ khác nhau.
Tác động đối với ngoại giao
Vấn
đề Biển Đông là một trong những nguyên nhân tác động đến lòng tin chính
trị giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN. Việc giải quyết vấn đề Biển
Đông một cách công bằng, hợp lý sẽ trở thành mắt xích quan trọng để hai
bên tăng cường lòng tin chính trị và triển khai quan hệ hợp tác an ninh
trong khuôn khổ Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc - ASEAN. Để giải quyết vấn đề Biển Đông một cách hòa bình, Trung Quốc đã đưa ra tư tưởng tiếp cận kép
với nội dung cơ bản nhất quán từ trước đến nay của Trung Quốc là giải
quyết song phương với những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc
và Trung Quốc cùng ASEAN gìn giữ hòa bình ở khu vực Biển Đông..
Tác động đối với quân sự
Là
một cường quốc về công nghệ trên thế giới và là cường quốc biển tại khu
vực châu Á-Thái Bình Dương, sự giúp đỡ của Nhật Bản về trang bị và kỹ
thuật quân sự cho các nước như Philippines, Việt Nam cũng như việc huấn
luyện, tiến hành diễn tập quân sự chung sẽ tăng cường khả năng quân sự
của các nước này, gia tăng xu thế nâng cao sức mạnh quốc phòng của các
nước có liên quan đến Biển Đông trong khu vực Đông Nam Á, qua đó gia
tăng áp lực an ninh quân sự đối với Trung Quốc. Chiến lược bảo đảm an ninh quốc gia của Nhật Bản
quy định, Nhật Bản sẽ đứng trên quan điểm chủ nghĩa hòa bình tích cực,
thông qua trang bị phòng thủ linh hoạt, tích cực tham gia hợp tác quốc
tế và đóng góp cho hòa bình khu vực, thay thế 3 nguyên tắc xuất khẩu vũ
khí bằng 3 nguyên tắc chuyển giao công nghệ và trang bị phòng thủ, nâng
cao sức mạnh quân sự Nhật Bản thông qua trang bị vũ khí sử dụng linh
hoạt, khiến Nhật Bản có thể chuyển giao trang bị quân sự thuận tiện hơn,
không chỉ cho Philippines mà còn các nước khác trong khu vực Biển Đông
như Indonesia v.v… Cùng với nới lỏng quy
định cấm xuất khẩu vũ khí, các quan chức của Nhật Bản cũng cam kết rằng,
việc xuất khẩu vũ khí của nước này sẽ được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm
số vũ khí đó không rơi vào tay các nhóm khủng bố hay được chuyển đến các
khu vực đang có chiến tranh. Theo quy định này, Nhật Bản chỉ có thể
xuất khẩu vũ khí cho các nước, nếu số vũ khí đó được sử dụng vào việc
gìn giữ hòa bình và hỗ trợ nhân đạo, như trong trường hợp thực hiện các
sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Theo các nhà quan sát, với
các cơ sở công nghiệp và công nghệ tiên tiến, Nhật Bản chắc chắn sẽ trở
thành quốc gia xuất khẩu vũ khí hiện đại đáng kể và là đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực chế tạo, xuất khẩu vũ khí trên thế giới.
Điều này sẽ thúc đẩy chạy đua quân sự tại khu vực Biển Đông. Bên cạnh
đó, , Biển Đông có ý nghĩa địa kinh tế vô cùng quan trọng đối với an
ninh thương mại trên biển của Trung Quốc. Mặc dù phương hướng chính sách
và biện pháp thực hiện của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông sẽ góp
phần đảm bảo an ninh hàng hải, duy trì hòa bình, nhưng quan điểm và sự
can dự của Nhật Bản chắc chắn làm Trung Quốc quan ngại do những khác
biệt giữa hai bên.
Kiềm chế hiện thực hóa con đường tơ lụa trên biển
Về
chiến lược, việc Nhật Bản can thiệp vào giải quyết các tranh chấp chủ
quyền ở Biển Đông cũng như can dự ngày càng sâu vào vấn đề này là nhằm
kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.. Đông Nam Á là khu vực nằm trong
trục Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI, có vai trò quan trọng đối với việc triển khai xây dựng con đường này cũng như Sáng kiến Vành đai Con đường. Việc Nhật Bản nêu thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc
từ hành động thực tiễn của Trung Quốc trên Biển Đông và Biển Hoa Đông
trong các nước ASEAN sẽ làm giảm lòng tin của các nước này với Trung
Quốc, đồng thời có tác động đến việc phát triển quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện Trung Quốc – ASEAN. Trong bối cảnh vùng Biển Hoa Đông
đang có tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản và Trung Quốc ở quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư, việc tranh chấp kho đi đến giải quyết dứt điểm vì hai
bên đều khẳng định chủ quyền. Chính vì vây, Nhật Bản tăng cường hợp tác
với ASEAN, nhất là những nước có liên quan ở Biển Đông để kiềm chế việc
Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết các tranh chấp chủ quyền về biển đảo ở
cả hai khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông. Mặt khác, Nhật cũng khẳng
định vai trò của mình đối với khu vực Đông Nam Á, thông qua chính sách
viện trợ không hoàn lại các trang thiết bị cho những lực lượng hoạt động
trên biển của các nước thành viên ASEAN, và như vậy Nhật Bản không mong
muốn vị trí của mình bị giảm sút trước sự cạnh tranh của Trung
Quốc.(cần làm rõ thêm làm sao Nhật làm ảnh hưởng đến hợp tác ASEAN-TQ
cũng như việc triển khai các sáng kiến của TQ.
Kết luận
Khu
vực Biển Đông là địa bàn chiến lược quan trọng để các nước lớn tranh
giành ảnh hưởng và kiềm chế lẫn nhau trong quá trình cùng hợp tác và
cạnh tranh. Sự can dự của Nhật Bản vào vấn đề Biển Đông và tác động đối
với Trung Quốc trong quá trình triển khai thực hiện chiến lược cường
quốc biển là ví dụ điển hỉnh.
Trong
bối cảnh hiện nay, Nhật Bản liên tục đẩy mạnh hợp tác an ninh, quốc
phòng với các thành viên của ASEAN. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản
đều đặn củng cố quan hệ với các quốc gia ASEAN dưới hình thức trao đổi
quốc phòng, chủ yếu tập trung vào các cuộc tham vấn cấp cao và đàm phán
cấp sự vụ, cùng các cuộc đối thoại an ninh song phương nhằm mục đích tạo
dựng lòng tin và nâng cao tính minh bạch. Tuy nhiên, thời gian gần đây,
Nhật Bản đã chuyển tới một mức độ cao hơn của hợp tác gồm các cuộc tập trận song phương và những thỏa thuận về thiết bị quốc phòng với các quốc gia thành viên ASEAN.
Sau cuộc họp của các Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên giữa
Nhật Bản và các nước ASEAN vào tháng 11/2014, khối ASEAN hiện đang trở
thành một trong những đối tác khu vực chủ chốt của Nhật Bản về các vấn
đề an ninh, sau Mỹ, Australia, Hàn Quốc và Ấn Độ. Những đặc trưng của ngoại giao quốc phòng
Nhật Bản áp dụng với ASEAN có thể gói gọn trong ba điểm sau đây: mở
rộng sự hiện diện, tăng cường quan hệ đối tác và chia sẻ các chuẩn mực
và quy tắc chung thông qua những quan hệ đối tác này. Cụ thể là Nhật Bản
tăng cường viện trợ những trang thiết bị, phương tiện tàu tuần tra, tổ
chức đào tạo, tập huấn tại Nhật Bản đối với lực lượng chấp pháp và hải
quân của các nước ASEAN để thực hiện năng lực kiểm tra, kiểm soát trên
biển. Thách
thức khác là sự hạn chế rất lớn về năng lực trên không - trên biển của
các nước Đông Nam Á ven biển. Một ý tưởng nhằm giúp cải thiện vấn đề này
sẽ là xây dựng một mạng lưới hoạt động chung trong khu vực nhờ đó các
bên tham gia ven biển cung cấp thông tin trên không-trên biển, Nhật Bản
và Mỹ cung cấp thông tin vệ tinh và thông tin từ bên ngoài. Tất cả các
quốc gia tham gia sẽ lấy thông tin miễn phí từ mạng lưới này. Nếu hoàn
thành, đây có thể trở thành một công cụ chủ chốt nhằm cải thiện khả năng
hoạt động khu vực của các quốc gia tham gia và có thể khuyến khích họ
có những hành động hợp tác và phối hợp chống lại hành vi gây hấn của bất
kỳ quốc gia nào. Để giúp phát triển những khả năng này, Nhật Bản và Mỹ
cần phải cùng nhau hỗ trợ việc xây dựng năng lực của các nước Đông Nam Á ven biển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét