Nguyễn Trọng Bình
Theo Viet Studies
Quy mô xây dựng của Trung Quốc tại bãi đá Huy Gơ - Ảnh: Võ
Xuân Hiệp
1. Câu chuyện biển Đông lại một lần nữa nóng lên kể từ khi Mỹ
điều máy bay do thám và công bố những hình ảnh bồi đắp, cải tạo xây dựng các đảo
mà trước đây họ đã dùng vũ lực cướp từ tay Việt Nam. Việc làm này của Trung Quốc
hiện đang bị dư luận và cộng đồng thế giới lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ. Tuy vậy,
có thể thấy không riêng gì lần này, mỗi khi bị cộng đồng thế giới chỉ trích thì
gần như ngay lập tức Trung Quốc phản ứng lại với một thái độ và tâm thế không hề
nao núng (nếu không muốn nói là rất tự tin và đầy kiêu hãnh). Tại sao như vậy?
Tại sao Trung Quốc dù nghe hết, biết hết những gì dư luận thế giới nói về mình
nhưng họ vẫn cứ làm với thái độ bất chấp tất cả?
Đặt ra vấn đề trên để thấy rằng, lâu nay, trong cuộc tranh
chấp ở biển Đông với Trung Quốc, đa phần chúng ta chỉ xem xét vấn đề ở phương
diện nào có lợi cho ta nhất mà thôi. Điều này là đương nhiên. Tuy vậy, nếu như
thế có khi nào là chủ quan và duy ý chí vì như người xưa nói “biết người biết
ta trăm trận trăm thắng”?
Lịch sử và văn hóa Trung Quốc cho thấy họ là bậc thầy của
chiêu thức “binh bất yếm trá”. Vì vậy một tinh thần cảnh giác thường trực và
cao độ với Trung Quốc sẽ không bao giờ thừa. Đặc biệt, đừng bao giờ chủ quan
cho rằng“không ai hiểu Trung Quốc bằng Việt Nam” hay như có người phát biểu“tôi
không bất ngờ về việc làm của Trung Quốc hiện nay”. Thực ra, nói như thế là ngụy
biện vì nếu đã hiểu rõ bộ mặt thật họ vậy sao cứ chơi và xem họ là “bạn thân”,
là “đồng chí tốt”? “Bạn” và “bạn thân” là hai vấn đề, hai quan điểm, hai lập
trường rất khác nhau chứ? Ai đời đã biết cái đứa năm lần bảy lượt đâm sau lưng
mình mà vẫn kết thân với nó? Nói ra điều này chỉ càng làm cho người bên ngoài họ
cười vào mặt mình mà thôi.
Nói cách khác, trong bất cứ mọi thời điểm mọi hoàn cảnh, cần
thiết chúng ta phải tự đặt ra thật nhiều giả thiết và tự phản biện lại tất cả
các giả thiết ấy để thấy rõ hơn đâu là điểm mạnh đâu là điểm yếu của mình. Có
như vậy mới không bị động và may ra mới tìm được giải pháp tối ưu nhằm đối phó
với sự ranh ma của Trung Quốc.
2. Vì sao Trung Quốc luôn tỏ thái độ xem thường và thách thức
Việt Nam và cộng đồng thế giới trong vấn đề tranh chấp trên biển Đông? Để trả lời
câu hỏi này nhất định chúng ta phải tự đặt mình vào lập trường và quan điểm của
họ để phân tích, xem xét. Ở đây tôi thử phân tích và lý giải một số căn nguyên
như sau:
- Thứ nhất, về mặt chiến lược “đối nội”, trong khi Việt Nam
đến giờ vẫn còn loay hoay không biết tuyên truyền; “giải thích” làm sao cho dân
chúng trong nước hiểu và đồng thuận; thậm chí Nhà nước hiện này còn rất “kiên định”
cấm dân chúng biểu lộ sự bất bình trước thái độ hung hăng của Trung Quốc (vì “mọi
chuyện đã có Đảng và Nhà nước lo”) thì ngược lại, từ lâu Trung Quốc đã có một
chiến lược dài hơi để tuyên truyền cho toàn dân họ rất bài bản và kỹ lưỡng. Nói
cách khác, trong khi “lòng dân” và “ý Đảng” ở Việt Nam vẫn còn chưa gặp nhau
thì ngược lại, dân chúng Trung Quốc riêng về vấn đề biển Đông từ trước tới nay
vẫn luôn ủng hộ chính sách ngoại giao cứng rắn và không nhân nhượng Việt Nam của
chính quyền ông Tập Cận Bình.
Về vấn đề này, mới đây tác giả Đoàn Công Lê Huy trong bài viết
“Bàn cờ chín khúc biển Đông của Trung Quốc” trên báo Tuổi trẻ số ra ngày
28/5/2015 đã khái quát và chỉ ra rất cụ thể rằng như sau: “Như kỳ thủ đánh cờ
nghĩ trước trăm nước, qua hàng thế kỷ họ luôn xuất kỳ có chủ ý. Họ chuẩn bị chu
đáo và thực hiện từng nước đi. Toàn quân, toàn dân, toàn diện, được chỉ huy từ
trên cao, bằng một cây gậy nhất quán. Họ luôn hát vang giai điệu chính và làm
sao để gần 1,4 tỉ người không lạc điệu. Trên biển dẫu có lúc lộn xộn, có đến
năm “lực lượng chấp pháp”, năm con rồng cùng quấy phá biển Đông - ngũ long nộ hải
- thì cũng không bao giờ họ lạc giai điệu chính. Có nghĩa là chiến lược vẫn nhất
quán dù chiến thuật có thể lúc thế này lúc thế kia. Mao Trạch Đông hay Tưởng Giới
Thạch dù có khác nhau về phe phái thì bản đồ vu vơ đường lưỡi bò chín đoạn vẫn
được đồng thuận xài chung. Họ vẫn cùng nhau hát đúng giai điệu chính trên căn bản
này”.
- Thứ hai, về đối ngoại, thời gian qua chính quyền Trung Quốc
hoàn toàn yên tâm vì họ biết quan điểm và lập trường của Việt Nam là không kiện
họ ra tòa án quốc tế như Philippines; Việt Nam cũng không liên minh với nước
nào để chống lại họ. Và điều quan trọng hơn cả là Mỹ, Nga (hai cường quốc trên
thế giới) đều tuyên bố không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp này.
- Thứ ba, về mặt pháp lý nhất là việc nhìn nhận và giải
thích luật quốc tế, nếu như Việt Nam đang có chút lợi thế là bộ sưu tập các bản
đồ cổ (trong đó chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam, không thuộc chủ quyền của Trung Quốc) và các học giả quốc tế cũng
không chấp nhận ranh giới “đường lưỡi bò” thì ngược lại Trung Quốc có ưu thế
hơn thông qua một “bằng chứng lịch sử” khác. Đó là cái công hàm oan nghiệt do
ông Phạm Văn Đồng thay mặt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký và “trân trọng” gửi
cho họ vào năm 1958 (mà mọi người đã rất nhiều lần tranh luận trước đây). Dù muốn
dù không chúng ta phải thừa nhận, Việt Nam rất khó ăn khó nói với bạn bè thế giới
về nội dung ghi trong cái mảnh giấy (tuy chỉ có mấy chữ nhưng tác hại rất khủng
khiếp) này.
Cho nên, thời gian qua nếu Việt Nam nói “chúng tôi có đầy đủ
căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” thì phía ngược họ cũng đường hoàng,
dõng dạc tuyên bố giống hệt như vậy. Và khi chúng nói họ “hung hăng”, “ngang
ngược” thì họ cũng đáp trả lại Việt Nam là kẻ “lật lộng”, “phản bội”...
- Thứ tư, nhiều chuyên gia luật hiện nay chỉ tập trung phân
tích việc Trung Quốc cải tạo các đảo đá ngầm hiện nay thành đảo nhân tạo thì về
mặt pháp lý căn cứ vào các điều khoản của “Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển
1982 (UNCLOS) họ sẽ không được công nhận chủ quyền. Điều này là không có gì
sai. Tuy nhiên, đáng tiếc là Trung Quốc hiện nay không quan tâm đến vấn đề ấy.
Điều họ quan tâm là phải làm sao bằng mọi cách nhanh chóng kiểm soát tất cả những
đảo mà họ đang xây dựng để từng bước kiểm soát cả biển Đông. Trên cơ sở đó làm
bàn đạp từng bước dùng sức mạnh “nước lớn” của mình để áp đặt “luật chơi” mới
lên các “nước nhỏ” nhằm phân chia lại trật tự thế giới với Mỹ ở Thái Bình
Dương. Tóm lại, mục tiêu của họ là kiểm soát trên thực địa chứ không phải chuyện
công nhận hay không công nhận của UNCLOS. Đừng nghĩ rằng, họ không sợ “mất mặt”,
“mất uy tín” với bạn bè quốc tế. Thực ra, họ biết hết những chuyện ấy nhưng điều
quan trọng là họ tin rằng sau khi độc chiếm biển Đông; trở thành bá chủ họ sẽ tạo
dựng và lấy lại uy tín còn mạnh mẽ hơn nữa. Nói cách khác đây là chiêu“tiên hạ
thủ vi cường/ Hậu thủ vi tai ương” trong Binh pháp Tôn Tử mà họ đương nhiên
sành sỏi hơn chúng ta rất nhiều.
- Cuối cùng, những ngày qua, kể từ khi Mỹ đưa máy bay vào do
thám và công bố những hình ảnh Trung Quốc đang cải tạo đảo, dư luận lại bắt đầu
làm sống lại giả thuyết “chiến tranh Trung - Mỹ” sắp nổ ra. Dĩ nhiên chúng ta
nhất định cũng cần đặt ra tình huống giả định này để nhìn nhận vấn đề cho thật
thấu đáo. Tuy vậy, như nhiều chuyên gia khác cũng nhận định, kịch bản Trung - Mỹ
xảy ra chiến tranh trên biển Đông trong tương lai gần ít có khả năng xảy ra hơn
kịch bản Trung Mỹ “bắt tay” và thương lượng với nhau. Câu nói của ông Tập Cận
Bình khi gặp ngoại trưởng Mỹ John Kerry mới đây:“Thái Bình Dương đủ rộng cho cả
Trung Quốc và Mỹ” ít nhiều đã ngầm nói lên điều này. Và nếu như kịch bản này xảy
ra thì chắc chắn Việt Nam khi ấy chỉ là một quân cờ để hai cường quốc thế giới
mang ra “cân, đo, đong, đếm” mà thôi.
3. Từ những phân tích trên có thể nói, hiện nay nhìn toàn cục
Trung Quốc đang nắm thế chủ động hơn so với Việt Nam và các nước khác tuyên bố
chủ quyền ở Biến Đông. Đó chính là lý do thời gian qua mặc cho Philipines kiện
họ ra tòa quốc tế và mặc cho Bộ ngoại giao Việt Nam liên tiếp gửi các công hàm
phản đối nhưng họ vẫn chẳng coi ra gì.
Từ đây, trên phương diện nhận thức chung, để đối phó và tạo
ra ưu thế cho mình trong cuộc đối đầu này, Việt Nam, theo tôi nhất định phải tập
trung vào các nhóm vấn đề quan trọng sau đây:
- Một, phải thay đổi tư duy trong cách tiếp cận vấn đề, tức
là điều quan trọng bây giờ là phải hết sức cảnh giác đồng thời tập trung mọi
nguồn lực nhằm giữ vững các đảo hiện tại đang nắm quyền kiểm soát. Nói cách
khác vấn đề bây giờ là không để mất thêm đảo nào nữa vào tay Trung Quốc chứ
không phải nói như ông Phó thủ tướng Vũ Đức Đam dạo nào:“Đời tôi và các bạn
chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ đòi lại”.[1] Thử hỏi tại sao bây giờ
không quyết liệt đòi, không tự tin sẽ đòi lại được mà nhắn gửi, dặn dò con cháu
như thế? Nói như thế khác nào đã công khai thừa nhận sự thất bại của mình hiện
nay đồng thời đẩy quả bóng trách nhiệm cho thế hệ mai sau? Và phải chăng thế hệ
lãnh đạo trước đây cũng từng suy nghĩ như vậy, cũng từng “trăn trối” và nhắn gửi
thế hệ lãnh đạo của ông Phó Thủ tướng hôm nay nhưng các ông cũng làm được gì
đâu!?
- Hai, cần chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho Mỹ và các đồng
minh của Mỹ thay Việt Nam “bảo vệ nguyên tắc luật pháp quốc tế trên biển
Đông”[2] và ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa các đảo mà họ đang kiểm soát. Điều
đó cũng có nghĩa trong hoàn cảnh hiện nay nếu còn chần chừ không thể hiện rõ
ràng dứt khoát, lập trường quan điểm của mình chắc chắn Việt Nam mãi mãi chỉ là
con tốt không hơn không kém trên bàn ngờ ngoại giao một khi Trung Quốc “bắt
tay” với Mỹ bằng chiến thuật lùi một bước để tiến nhiều bước...
Và quan điểm và lập trường ở đây không phải là Việt Nam nên
“theo ai” hay “ngã về bên nào” mà là cần nhanh chóng chấm dứt trò chơi “đu dây”
đầy mạo hiểm với việc lấy cảng Cam Ranh ra để giữ thăng bằng. Hay tệ hơn nữa là
tâm lý “tọa sơn quan hổ đấu”!
- Ba, về mặt đối nội Đảng, Quốc hội Việt Nam cần nhanh chóng
ra Nghị quyết nhằm tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân về tình hình
biển Đông hiện nay, đặc biệt nội dung bản Nghị quyết phải thể hiện rõ tinh thần
hiệu triệu như lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh trước
đây. Tức là “chúng ta càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới vì họ muốn
cướp đảo của ta lần nữa...” Theo tôi, mọi chuyện đã đến nước này thì không còn
gì mà giấu giếm, úp mở với nhân dân hay ngụy biện vì là chuyện “nhạy cảm”, “tế
nhị” nên Quốc hội chỉ “họp kín”. Nếu ra được Nghị quyết lúc này về trước mắt sẽ
ổn định được lòng dân còn về lâu thế hệ con cháu mai sau còn có cái để mà “ăn
nói” với Trung Quốc (hay nếu như muốn tiếp tục “đòi lại” các đảo bị Trung Quốc
cướp mất như lời dặn dò của ông Phó Thủ tướng mà tôi vừa đề cập ở trên). Và nhất
là để lịch sử mai sau còn viết vào đó lại vài dòng ghi nhận công lao của thế hệ
lãnh đạo hôm nay chứ không phải là không là những lời nguyền rủa nhu nhược, hèn
kém.
- Cuối cùng, Việt Nam cần kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế như
Philippines đã làm. Cho dù Trung Quốc hiện nay không coi luật pháp quốc tế ra
gì nhưng cần phải kiện họ vì chỉ có cách này cộng đồng quốc tế mới tin tưởng và
ủng hộ Việt Nam nhiều hơn. Khi ấy Mỹ và các đồng minh Nhật, Úc... mới có “cơ hội”
giúp Việt Nam ngăn chặn sự hung hăng của Trung Quốc. Hiện nay, chính vì Việt
Nam cứ ỡm ờ, không dám kiện nên cộng đồng quốc tế họ hoài nghi. Mình cứ nói
“chính nghĩa” và “lẽ phải” thuộc về mình nhưng lại không cho thấy quyết tâm bảo
vệ “chính nghĩa” và “lẽ phải” đến cùng thì làm sao người ta tin những gì mình
nói.
Ngoài ra, khởi kiện bây giờ cũng là phòng tránh một sự lật lọng
của Trung Quốc về sau. Tức là trong trường hợp sau khi hoàn thành việc cải tạo
các đảo hiện nay, với sức mạnh và sự ảnh của một “nước lớn” có thể họ sẽ kiện ngược
lại Việt Nam. Khi ấy với tư cách là “bị đơn” lại là “nước nhỏ”, Việt Nam rất
khó thoát ra khỏi sự điều khiển của họ.
Cần Thơ, 30/5/205
https://www.danluan.org/tin-tuc/20150602/nguyen-trong-binh-vi-sao-trung-quoc-thach-thuc-ca-the-gioi-trong-cuoc-tranh-chap
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét