Ngô Nhân Dụng
Sau khi chiến tranh
đã chấm dứt 25 năm, một người lính còn tiếp tục “chiến đấu” là Thiếu Tá Vương Mộng
Long, cựu tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Ông kể chuyện cuộc đấu
trí giữa ông và một giáo sư dạy sử người Mỹ, trong năm 2000, ông theo học một lớp
“Sử Chiến Tranh Việt Nam.” Vương Mộng Long đã cho nhà giáo này thấy rằng những
gì ông ta biết về cuộc chiến Việt Nam chỉ dựa trên sách vở, hoàn toàn sai sự thật.
Ðặc biệt là những nhận định sai lầm về quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mà người
sinh viên lớn tuổi đã từng cầm súng chiến đấu trong đó. Cuối cùng, vị giáo sư
được thuyết phục, bắt tay Vương Mộng Long, công nhận: “Chiến sĩ, ông vừa lập một
chiến công!”
Những nhận định sai lầm
trong sách vở tại Mỹ về quân đội Việt Nam Cộng Hòa có nguồn gốc sâu xa hơn các
lớp học sử trong nhà trường. Căn nguyên là chính sách sai lầm của chính phủ Mỹ
ngay từ đầu, khi họ muốn áp dụng bài học cuộc chiến Cao Ly khi tới Việt Nam. Từ
năm 1964, quân đội Bắc Việt đổ vào miền Nam ngày càng nhiều không khác gì quân
Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn năm 1950. Chính phủ Mỹ phải quyết định tham chiến, và
họ nghĩ quân đội Mỹ sẽ đóng vai chính trên chiến trường, không khác gì hơn mười
năm trước, trên bán đảo Cao Ly. Với quan niệm đó, họ không chủ trương giúp quân
đội Việt Nam Cộng Hòa gia tăng quân số, vũ khí, hỏa lực và kỹ thuật để tự đóng
vai chủ động trong tự bảo vệ lãnh thổ. Có thể họ đã thấy chiến tranh Cao Ly, dù
có một triệu quân Trung Cộng tham dự, cũng chỉ kéo dài có ba, bốn năm; một thời
gian ngắn không đủ để chuẩn bị cho một đạo quân miền Nam hùng mạnh hơn.
Khi chính phủ Mỹ quan
niệm nước Mỹ đóng vai chính trong cuộc chiến đang diễn ra, thì giới truyền
thông Mỹ và dân chúng Mỹ cũng nghĩ như vậy. Nguồn tin chính của các ký giả Mỹ
là các đơn vị quân đội Mỹ, và họ chỉ đi săn tin về đạo quân nước họ, cung cấp
cho các độc giả và khán giả ti vi người Mỹ. Cho nên họ nhìn lực lượng quân đội
Việt Nam Cộng Hòa với con mắt thiên lệch. Năm 1970, Nixon bắt tay với Trung Cộng
để chia rẽ khối cộng sản, thì họ quyết định rút quân, để mặc cho Nga và Tàu
tranh giành ảnh hưởng trên nước Việt Nam.
Khi muốn rút quân,
các viên chức chính phủ và Quốc Hội Mỹ tìm cách trút hết trách nhiệm thất bại
cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Giới truyền thông Mỹ đồng tình với lối giải
thích đó. Và các “học giả” nghiên cứu chiến tranh Việt Nam cũng không nhìn thấy
xa hơn. Họ vẫn coi cuộc chiến tranh Việt Nam như một cuộc chiến “của nước Mỹ.”
Họ không thể hiểu nổi tại sao người dân miền Nam Việt Nam lại nhìn cách khác.
Thiếu Tá Vương Mộng
Long đã dùng sách vở và cuộc đời của chính ông, để cho giáo sư dạy sử thấy một
cách nhìn khác. Sau nửa khóa học, ông đã yêu cầu được nói chuyện tay đôi. Với
những bằng chứng, tài liệu, các kinh nghiệm chiến đấu và 13 năm bị giam cầm
trong các trại tù “cải tạo,” ông đã chinh phục được vị thầy giáo tại Shoreline
Community College WA. Thiếu Tá Vương Mộng Long thành công. Ông thầy dạy sử
thành thật nói: “Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều
là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình người Việt
Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này...
Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.” Trong
buổi lễ lãnh bằng Cử Nhân (BA) của Thiếu Tá Vương Mộng Long tại Ðại Học
Washington, Giáo Sư Dan nói: “Long, I’m proud of you” (Long, tôi hãnh diện về
ông), và “My soldier, I’m loving you!” (Chiến sĩ của tôi, tôi yêu mến ông).
Nhân Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa quý vị độc giả có thể tìm trên mạng để đọc
đầy đủ cả câu chuyện dài này do chính người trong cuộc kể, một chiến sĩ vẫn tiếp
tục chiến đấu.
Trong các hồi ký
khác, ông Vương Mộng Long kể chuyện lần ông vượt “ngục cải tạo” lần thứ hai,
vào năm 1978, bị bắt lại sau sáu mươi bốn ngày trốn. Trong khi “nằm chờ giờ ra
pháp trường,” ông suy nghĩ: “Thôi thế cũng là xong! Cứ coi như một lần ra trận...”
Sau khi ông ra khỏi tù, có lần ông Vương Mộng Long trở về một chiến địa cũ, nơi
nhiều đồng đội Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân dự trận đánh đẫm máu bi hùng cuối
cùng. Hôm đó đúng ngày Ba Mươi Tháng Tư, ông thấy, có lẽ dân chúng trong vùng
này còn nhớ tới các chến sĩ hy sinh cho nên đã cắm những bó nhang, hương khói
tưởng nhớ ngay bên đường.
Hình ảnh trên gợi nhớ
lại cảnh những toán quân nhân đi tù cải tạo. Khi đoàn xe chuyển trại dừng lại
bên đường, dân chúng nhận ra đã tự động đem đủ các thức ăn tới vội vàng tiếp tế
cho họ. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa có thể hãnh diện vì đã được người dân ghi ơn
và tưởng nhớ mãi trong lòng.
Mà không riêng gì người
dân miền Nam Việt Nam. Anh Nguyễn Viết Dũng sinh ở Nghệ An ngày 19 tháng 6 năm
1986, trùng với “Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.” Anh đã dám treo cờ vàng ba sọc
đỏ tại nhà, hát Quốc ca và mặc quân phục Việt Nam Cộng Hòa. Anh đã bị bắt giam
cùng bốn người bạn khi đi biểu tình vào Tháng Tư vừa qua ở Hà Nội, cả nhóm đều
đeo huy hiệu đại bàng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều người Mỹ vẫn
nói về cuộc chiến tranh Việt Nam như là cuộc chiến của quân đội Mỹ. Giờ đây người
Việt ở miền Bắc cũng thấy nhận ra đó là một cuộc nội chiến giữa hai chế độ, hai
lối sống, giữa miền Nam tự do và miền Bắc Cộng Sản. Dân Việt đã bị Ðảng Cộng Sản
đưa ra làm vật hy sinh phục vụ một cuộc tranh hùng quốc tế vì họ tưởng rằng khối
cộng sản sẽ đè bẹp thế giới tư bản.
Người dân miền Nam đã
thấy rõ điều đó khi họ hát khắp nơi: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày!” Cho
nên, ngay trong thời chiến một người lính miền Nam như thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn vẫn
nói với “địch quân” rằng: “Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - Vì căn phần
ngươi xui khiến đó thôi! Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi - Suy nghĩ làm
gì lao tâm tổn trí!”
Một chiến binh thi sĩ
khác, mới in tập thơ viết về chiến tranh sau khi cuộc chiến đã chấm dứt 40 năm,
là Nguyễn Lê Minh, một y sĩ phục vụ trong lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Giá trị
nhân bản, văn minh của một quân đội được thể hiện trong những điều các chiến sĩ
nghĩ trong đầu trong khi ra chiến trận. Tập thơ của Nguyễn Lê Minh biểu lộ bằng
một bút pháp giản dị, trong sáng những điều diễn ra trước mắt và trong lòng
anh, khi anh Vào Cơn Bão Lửa, với “Những chiến địa còn tươi xương máu thịt.”
Làm bác sĩ, anh đã đau lòng vì, “Ðôi tay ta run rẩy biết bao lần - Vuốt cặp mắt
đứng tròng bao lính trẻ.”
Nguyễn Lê Minh bắt đầu
muốn làm thơ trong một ngày anh đi trong thành phố Quảng Trị hoang tàn, bên
dòng sông Thạch Hãn. Anh chợt nghe thấy tiếng trẻ cười, giọng cười hồn nhiên
trong vắt. Anh tìm thấy hai em bé đang đùa giỡn dưới sông, tiếng cười của các
em bé 8, 9 tuổi “như tia nắng làm sáng khung trời chiều thu mây xám.” Nguyễn Lê
Minh nhớ lại thời thơ ấu của mình, “thằng bé gầy còm sinh giữa mùa Hè năm Ất Dậu”
rồi được di chuyển “trong thúng mẹ lủng lẳng tản cư.” Anh tự hỏi: “Có thể nào
những đứa con chưa ra đời của tôi... 25 năm nữa lại khoác áo lính? 25 năm sau
chúng có cầm khẩu súng của phe này chĩa vào những đứa bé đang đùa giỡn vô tư
bên kia sông hay không?” Những ý tưởng dằn vặt đó khiến Nguyễn Lê Minh phải viết
một bài thơ cho những em bé cùng thế hệ với các đứa con chưa sinh ra của mình.
Một chiến sĩ trở thành một thi sĩ. Bài thơ đầu đời viết bên bờ sông Thạch Hãn
đó không được in trong tập thơ Ðường Ta Ði mới xuất bản của Nguyễn Lê Minh. Bài
thơ này anh cất trong chiếc ba lô bị bỏ lại trên bãi biển Mỹ Khê vào cuối Tháng
Ba năm 1975, để tác giả bơi được ra tới tàu Hải Quân, thoát nạn. Còn tập thơ để
ở nhà, đã được mẹ anh cất giấu, kín đáo qua tay nhiều người, gần đây mới được
chuyển cho tác giả.
Giữa cảnh gạch ngói sập
đổ ngổn ngang ở Quảng Trị, nhìn sang phía địch quân là “cánh đồng hoang ngút ngàn
cỏ khô không một bóng người,” một người lính Việt Nam Cộng Hòa lại nghĩ đến và
lo lắng cho số phận những đứa trẻ Việt thuộc thế hệ sau ở cả hai bên. Tâm trạng
đó cho thấy tinh thần nhân bản của người lính được đào luyện thế nào. Cả xã hội
miền Nam sống với nền văn minh tinh thần đó, trong truyền thống ngàn năm của
dân tộc. Cho nên, Nguyễn Lê Minh biểu lộ tình yêu nước thương nòi của người chiến
sĩ ngay trong lúc đang sống giữa cơn bão lửa nội chiến.
Nguyễn Lê Minh đi
cùng đoàn Thủy Quân Lục Chiến tiến về phía Bắc trong khi những đoàn dân cư chạy
loạn đi ngược chiều về phía Nam. “Mùa Hè Bão Lửa - Bắc Cộng vượt biên - Ðường
ta đi đất rung chuyển cuồng điên - Cuộc thảm sát xe tăng, đại pháo. Ðường ta đi
bày nhày xương, thịt máu - Suốt một vùng Bến Hải, Gio Linh...” “Ðường tiến quân
nhìn dân cư chạy ngược - Tất cả kinh hoàng dưới lằn đạn Nga Hoa - Từng thây người
bật ngửa rên la - Máu đỏ chan hòa vào cát nóng...”
Nguyễn Lê Minh đã bật
tiếng gọi tên tổ quốc, như người con kêu mẹ: “Ðường ta đi của những ngày Hè bão
lửa... Việt Nam ơi, Việt Nam!...” Bây giờ đã 40 năm sau khi chiến tranh chấm dứt,
lịch sử có thể ghi nhận tâm trạng một chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa trên Ðại Lộ
Kinh Hoàng. Anh chứng kiến trong đoàn dân chạy ngược chiều đoàn lính có người
cha đang chở con trên xe máy thì bị đạn cộng quân bắn trúng, ngã xuống chết. Rồi
cảnh một người mẹ ôm đứa bé sơ sinh lội qua sông, tới bờ mới thấy con đã chết
vì ngộp nước. Người mẹ muốn ngồi lại khóc con, ông chồng vội kéo đi ngay. Nguyễn
Lê Minh đã thấy gì, nghĩ gì, anh đã ghi lại và kể tâm sự thật của anh lúc đó:
“Mồ hôi nước mắt mẹ
cha
“Quyện cùng bụi cát
thối tha xác người
“Máu trong ta, máu
trong người
“Máu nào không thắm
những lời mẹ ru?
“Máu nào là máu hận
thù?
“Máu nào là máu rạng
cờ hùng anh?
“Máu nào là máu hôi
tanh?
“Máu nào không phải
em, anh, họ hàng?
Một quân đội có thể
hãnh diện về những chiến sĩ bền bỉ như Vương Mộng Long, mang tâm sự của Nguyễn
Lê Minh, và như hàng trăm ngàn đồng đội khác. Họ chiến đấu mà không khát máu,
không ai hô hào “giết, giết nữa bàn tay không biết mỏi.” Họ đứng thẳng hai chân
làm những con người, không bao giờ biến thành những cái máy sát nhân. Họ viết
những trang sử không bao giờ quên được. Chúng ta hãnh diện về những chiến sĩ
như vậy. Các em bé ra đời sau năm 1975, như Nguyễn Viết Dũng và các bạn, cũng
có thể hãnh diện về họ.
Nguồn: nguoi-viet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét