Nguyễn Văn Bông
THIÊN THỨ II: NHỮNG CHẾ ĐỘ CHUYÊN CHẾ
CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ NGA-SÔ
Khuôn mẫu của những chế độ quyền uy,
chuyên chế, chế độ Nga-Sô đồng thời tự cho là chế độ dân chủ. Để hiểu rõ
chế độ Nga-Sô, chúng ta lần lượt trình bày chủ nghĩa Mác-xít trước khi
phân tích các định chế và vai trò của Đảng Cộng sản.
Mục I: CHỦ NGHĨA MÁC-XÍT
Chủ nghĩa Mác-xít thường được hiểu là
một chủ nghĩa kinh tế. Hiểu như vậy không những là một điều lầm, mà còn
khiến cho chủ nghĩa ấy trở nên khó hiểu. Thật ra chủ nghĩa Mác-xít là
một triết lí, hay đúng hơn, một quan niệm toàn diện về con người và vũ trụ.
Nó có một chủ thuyết về kinh tế, cũng như có một chủ thuyết về chính
trị. Để có một ý niệm tổng quát về chủ nghĩa Mác-xít, chúng ta sẽ lần
lượt xem căn bản triết lí, chủ thuyết kinh tế cùng chính trị.
Đoạn 1: CĂN BẢN TRIẾT LÍ
Về mặt triết lí, chủ nghĩa Mác-xít có 3 đặc tính: là một chủ nghĩa duy vật, biện chứng pháp và duy vật sử quan.
A. Ở đây ta không nên hiểu là một triết
lí đạo đức giản tiện hay có mục đích đòi hỏi một vài quyền lợi vật chất.
Duy vật có nghĩa là vật chất là động cơ căn bản, nghĩa là lấy
sự thực và trạng thái của thực tế làm căn bản và căn cứ; tinh thần và tư
tưởng đều do các hiện tượng vật chất mà ra và là kết quả của các hiện
tượng này. Hiểu như vậy chủ nghĩa duy vật phủ nhận luôn cả Thượng đế.
Trên khía cạnh này, chủ nghĩa Mác-xít lấy lại một triết lí đã có từ lâu.
B. Chủ nghĩa Mác-xít là một chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác đã biến nó bằng cách lồng vào một hệ thống phương pháp luận, gọi là biện chứng pháp. Biện chứng pháp là một quan niệm về vũ trụ tiến hóa mà Mác mượn của Hegel. Học thuyết của Hegel chủ trương rằng với mọi sự vật trong vũ trụ,
hễ có cái chính thì đồng thời cũng sanh ra cái phản, hai yếu tố này
xung đột nhau và sinh ra yếu tố thứ ba là cái hợp. Hệ thống phương pháp
luận này, Mác áp dụng vào vật chất. Theo Mác, tất cả sự vật đều chứa
đựng những mâu thuẫn nội tại và chính những mâu thuẫn này thúc
đẩy sự vận động và sự phát triển của các sự vật. Vì thế những sự vật
khác nhau có những mâu thuẫn nội tại khác nhau; những nội tại khác nhau
và những hình thức vận động và chiều hướng phát triển khác nhau. Tuy
nhiên những mâu thuẫn này lại kết hợp với nhau chặt chẽ trong một khối
thống nhất: sự tồn tại của một yếu tố là điều kiện tồn tại của một yếu
tố khác, đồng thời sự thống nhất của sự vật mâu thuẫn cũng là điều kiện
tồn tại của cả khối ấy. Nhưng những sự vật mâu thuẫn nhau vừa xung đột
nhau, vừa đấu tranh nhau.
Và chính sự xung đột và đấu tranh lẫn
nhau của những vật đối lập nội tại đó thúc đẩy sức vận động và phát
triển của các sự vật. Như Lenin, nói «mâu thuẫn đấu tranh nhau tức là
phát triển vậy.»
Tóm lại mọi hiện tượng, nhất là hiện tượng trong xã hội đều phát triển theo quá trình biện-chứng. Đấu tranh là điều kiện tất yếu của mọi tiến bộ.
C. Duy vật sử quan: tức là áp dụng triết lí duy vật vào xã hội loài người.
Theo thuyết này thì tất cả những hiện
tượng thuộc về tinh thần tôn giáo, pháp luật, nghệ thuật, đều theo sự
phát triển của những hiện tượng vật chất.
Mác đã nói: “Không phải ý thức loài
người quyết định sinh hoạt loài người, mà trái lại, chính sinh hoạt loài
người quyết định ý thức loài người.”
Nói một cách khác, không phải bởi vì ta
tư tưởng như thế này mà ta sinh sống như thế này, mà chính bởi vì ta
sinh sống như thế này cho nên ta mới tư tưởng như thế này.
Tuy nhiên, giữa các hoàn cảnh vật chất và các sự vật trong xã hội, yếu tố quyết định chính là kĩ
thuật sản xuất. Các mối tương quan giữa người với nhau đều do kĩ thuật
sản xuất ấn định. Khi có một kĩ thuật sản xuất mới thì hình thức xã hội
lại đổi thay, như « thời đại dùng máy xay tay thì cả xã hội phong kiến, thời đại dùng máy hơi nước thì có chế độ tư bản kĩ nghệ ».
Cách mạng trong lịch sử thường
là những hiện tượng phá hủy thượng tầng kiến trúc không còn thích hợp
với thực trạng của quan hệ sản xuất. Thí dụ: Cách mạng Pháp năm 1789 đã
thích ứng với một cải biến kĩ thuật về quan hệ sản xuất, đặt giai cấp tư
sản lên hàng đầu trong cuộc sinh hoạt chính trị vì giai cấp này trở
thành giai cấp kinh tế thống trị thời bấy giờ.
Như thế, yếu tố thiết yếu trong xã hội, hiện tượng thường xuyên và bất diệt, là giai cấp đấu tranh: giai
cấp đấu tranh bao giờ cũng có, vì bất cứ trong xã hội nào, kĩ thuật sản
xuất cũng đặt lại mối tương quan sản xuất và hậu quả là một giai cấp
thống trị đối diện với một giai cấp bị bóc lột. Tiến bộ kĩ thuật cùng
tiến hóa, giai cấp thống trị bám lấy quyền vị và trái lại, giai cấp bị
bóc lột tiến mãi để trở thành giai cấp thống trị về kinh tế. Đấu tranh
giai cấp lần lần tiêu diệt thượng tầng kiến trúc cũ đã hóa lỗi thời để
thay thượng tầng kiến trúc mới.
Đoạn 2: CHỦ THUYẾT KINH TẾ
A. Căn bản của chủ thuyết kinh tế là: “giá trị lao động lực”.
Mác cho rằng trong chế độ tư bản, những người lao động lấy sức lực của
mình làm món hàng bán, nhà tư bản thì mua sức lao động của họ bằng một
số tiền công nhất định. Trong một thời gian nhất định mà lao động làm
việc cho tư bản, thì giờ của lao động dùng trong việc sản xuất thường
nhiều hơn thì giờ phải làm việc để hưởng tiền công. Sức lao động làm
việc để đổi lấy tiền công gọi là tất yếu lao động. Giá trị do
thặng dư lao động này ra tức là thặng dư giá trị (ví dụ: một người thợ
làm việc 10 giờ một ngày. Hãng kể 8 giờ làm việc là tất yếu lao động để
trả lương mà người thợ ấy được hưởng, còn hai giờ làm việc kia là thặng
dư giá trị mà nhà tư bản hưởng). Chính hiện tượng căn bản này gây mâu
thuẫn ngày càng nhiều và càng sâu trong xã hội tư bản, khiến một ngày
nhất định nào xã hội ấy sẽ biến đổi trở thành một xã hội tập sản chủ
nghĩa trong đó tất cả cơ quan sản xuất đều là của chung của toàn thể xã hội. Tại sao?
B. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự
cạnh tranh giữa các nhà tư bản là một điều tất yếu. Sự cạnh tranh ấy đưa
đến hậu quả là những tiểu, trung tư bản gia bị đại tư bản gia thôn
tính. Tư bản sẽ được tập trung trong tay một số ít nhà nhà tư bản lớn
hợp thành bọn quả đầu kinh tế và biến những tiểu trung tư bản gia cũng
như người sản xuất độc lập thành những người vô sản. Hàng ngũ những
người bị bóc lột do đấy, ngày một trở nên thưa thớt. Mâu thuẫn nội tại
của chủ nghĩa tư bản không cách nào giải quyết được. Hậu quả là một tình
trạng hỗn độn, nạn thất nghiệp ngày càng tăng gia, nạn kinh thế khủng
hoảng ngày càng trầm trọng, rồi trên phương diện bang giao quốc tế, mâu
thuẫn giữa các tư bản khiến chiến tranh bùng nổ, khiến xã hội trở thành
miếng mồi rất ngon cho công cuộc cách mạng tập sản vậy. Các mâu thuẫn
trong chế độ tư bản chủ nghĩa đưa tới một kết quả tất nhiên: một khi kĩ
thuật sản xuất đã trở thành công hữu, tập sản thì định chế pháp lí của
chủ nghĩa tư bản, không còn lí do tồn tại nữa: người ta phải đi tới chỗ
thủ tiêu quyền tư hữu đối với công cụ sản xuất.
Chủ nghĩa Mác-xít được xem là một chủ
nghĩa khoa học khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng hay lí tưởng. Cách
mạng là chuyện tất yếu, nhưng cách mạng phát sinh không phải do ý muốn
của dân chúng đòi hỏi hủy bỏ những bất công trong xã hội, mặc dù điều ấy
cũng có thể đưa giai cấp vô sản tới hành động cách mạng. Nguyên nhân
sâu xa và không thể tránh được của cách mạng chính thật nằm trong biến
chuyển và tiến hóa của kĩ thuật và của quan hệ sản xuất.
Cách mạng phải hoàn thành bằng bạo lực, bởi vì “Bạo lực là người hộ sinh giúp đỡ cho mọi xã hội cũ trong cơn đau đẻ.”
Đoạn 3: CHỦ THUYẾT CHÍNH TRỊ
A. Nhà nước, một định chế phải suy tàn
Nhà nước trong chế độ tư bản,
là một thượng tầng kiến trúc một ngày kia sẽ phải sụp đổ do phát triển
của hạ tầng kiến trúc. Chính giai cấp cách mạng, khi ý thức đầy đủ vai
trò của mình và đứng ra lãnh đạo cuộc giai cấp đấu tranh, sẽ giúp một
tay vào sự sụp đổ trên. Vấn đề sử dụng phương tiện hòa bình hay bạo
động, liên minh với thành phần này hay thành phần nọ, hành động hợp pháp
hay bất hợp pháp, là một vấn đề chiến dịch và chiến thuật, tùy theo
nhận định của tình trạng mỗi xứ.
Đoạn đường của một xã hội tư bản chủ nghĩa đi tới một xã hội cộng sản chủ nghĩa gồm ba giai đoạn:
1. Trong giai đoạn thứ nhất, sẽ thành
lập chế độ độc tài vô sản hay vô sản chuyên chính. Vô sản chuyên chính,
chỉ là một phương tiện, một giai đoạn trung gian giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Nó là một giai đoạn, trong đó, chỉ giai cấp
vô sản được nắm chính quyền, hành xử chính quyền không chia sẻ với giai
cấp khác và không thừa nhận các tự do cá nhân. Độc tài vô sản có phải là
một chính thể dân chủ không? Lenin trả lời câu hỏi ấy như sau: “Độc tài
vô sản nghĩa là có tổ chức tiền phong của giai cấp bị bóc lột trở nên
giai cấp thống trị, có mục đích thủ tiêu bọn áp chế, không thể chỉ làm
có việc nới rộng dân chủ. Đồng thời các việc nới rộng dân chủ lần đầu
tiên cho các kẻ nghèo, thứ dân chủ cho nhân dân chứ không phải thứ dân
chủ dành riêng cho bọn giàu sang, độc tài vô sản phải hạn chế tự do của
bọn áp chế, của bọn bóc lột, của bọn tư bản. Đối với bọn này, ta phải
đàn áp để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ làm công, phải đập tan sự
chống đối của chúng bằng võ lực và cố nhiên khi đã đàn áp thì phải dùng
tới võ lực và không nói đến chuyện tự do, dân chủ”. Lenin quả quyết rằng
chỗ nào có độc tài là không có tự do. Nhưng trong chế độ độc tài vô
sản, chỉ những kẻ bóc lột trước kia mới không có tự do.
2. Giai đoạn thứ hai, khi giai đoạn vô
sản độc tài đã qua, là giai đoạn của chế độ cộng sản chân chính, mặc dầu
chưa phải là giai đoạn cộng sản hoàn toàn và mới là giai đoạn hạ tầng
của chủ nghĩa cộng sản. Một vài điểm thiết yếu của chủ nghĩa cộng sản
trong giai đoạn này đã thực hiện được, như nạn người bóc lột người sẽ
mất với sự hủy bỏ quyền tư hữu đối với các công cụ sản xuất. Song lí
tưởng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản chưa hoàn toàn đạt được và nhất
là thuyết bình đẳng cơ bản của chủ nghĩa “mỗi người hưởng theo nhu cầu”
cũng chưa đạt được. Tại sao? Vì xã hội, ở giai đoạn này, vẫn còn mang
nặng “tàn tích của xã hội cũ mà nó đã thoát thai ra”. Do đấy, vẫn còn có
bất bình đẳng về tiền công và phần nào về địa vị trong xã hội, không
còn giai cấp vì nạn người bóc lột người đã mất, nhưng các bất bình đẳng
vẫn chưa tiễu trừ được.
Nhà nước tuy vẫn còn, song Nhà
nước bây giờ dân chủ hơn Nhà nước tư bản chủ nghĩa gấp ngàn lần. Việc
nhân dân hành xử tự do và các quyền chính trị bắt đầu có một ý nghĩa.
Tuy nhiên chưa thể nói tới chuyện bãi bỏ Nhà nước: sự cần thiết của công
cuộc sản xuất và các bất bình đẳng do tiền công gây ra bắt buộc phải
duy trì một hệ thống cưỡng bách thì Nhà nước trước hết là một phương
tiện cưỡng bách vậy.
3. Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn thượng tầng của
chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn huyền bí mà các lí thuyết gia Mác-xít đề
cập mơ hồ. Bây giờ đã tới lúc có thể thay thế châm ngôn: “mỗi người làm
theo nhu cầu”. Trong giai đoạn này, mức sản xuất đã lên tới một cao độ khiến các vấn đề phân phối sản phẩm không cần phải nêu lên nữa, và tâm lí con
người cũng thay đổi khiến không cần phải dùng tới sự cưỡng bách trong
cuộc tổ chức sản xuất, loài người sẽ quen với việc tuân giữ các quy tắc
cơ bản trong cuộc sinh hoạt tập thể và sức lao động của họ sản xuất
nhiều đến nỗi họ sẽ tình nguyện làm việc theo khả năng. Cái nhỡn tuyến
hẹp-hòi của luật pháp tư sản buộc người ta phải tính toán, chặt chẽ “Tôi
không dại gì làm nửa giờ nhiều hơn kẻ khác, tôi không dại gì làm công
việc này vì công việc này ít lợi hơn công việc khác” sẽ được thay thế
bằng một nhỡn tuyến bao la, vĩ đại hơn. Công việc phân phối sản phẩm cho
các phần tử trong xã hội sẽ không còn cần phải có một hạn chế nào vì
mỗi phần tử cần dùng bao nhiêu, cứ việc tự do mà lấy”.
Trong giai đoạn này Nhà nước sẽ không còn có lí do tồn tại.
Ngay trong giai đoạn hạ tầng, khi mà tâm lí và tập quán con người cải
biến theo hướng của chủ nghĩa cộng sản chỉ vạch, Nhà nước đã lần lần
khuất đi và ngày càng suy yếu và sự suy yếu sẽ đưa tới chỗ tiêu hủy.
Nhà nước trở nên vô ích khi sản xuất và phân phối có thể tổ chức được một cách tự nhiên, không cần cưỡng bách.
Như vậy trong giai đoạn cuối cùng, sự
phát triển chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa tới một chế độ vô Chính phủ, nghĩa
là bãi bỏ Nhà nước và mọi hệ thống cưỡng bách.
Giai đoạn chung kết này, bao giờ sẽ xuất
hiện và sẽ xuất hiện ra sao? Không ai có thể trả lời. Song đối với
người Mác-xít thì nó không phải là một ảo tưởng. Khi người ta bảo rằng
giai đoạn chung kết còn tùy thuộc sự cải tiến sâu xa của con người, vì
con người có cải tiến toàn diện thì giai đoạn cuối cùng của chế độ Cộng
sản mới hi vọng thực hiện được, người Mác-xít trả lời: đó sẽ là kết quả
của sự thành lập một xã hội cộng sản hay nói một cách khác, có thành lập
một xã hội cộng sản thì rồi con người mới có cơ hội cải tiến
được. Tâm lí và tư tưởng con người do những điều kiện khách quan của
sinh hoạt điều khiển, nên tâm lí của họ rồi sẽ thay đổi rất sâu xa.
B. Ý nghĩa của tự do, dân chủ
Đối với con người Mác-xít, không có giá
trị nào có thể gọi là tuyệt đối, vĩnh cửu, vô hạn cho tới khi hoàn thành
cuộc cách mạng. Các ý niệm về pháp luật và đạo đức chỉ có một giá trị tương đối,
bởi chỉ biểu diễn được quan niệm của một tầng lớp. Chỉ có xã hội không
giai cấp, xã hội tập sản chủ nghĩa mới thể hiện được những lí tưởng tuyệt đối, có giá trị đối với hết mọi người. Những lí tưởng này là những lí tưởng có tính chất khoa học, nghĩa là có tính khách quan.
1. Tự do trong một xã hội mà các mối tương quan chính trị và hệ thống pháp lí và luân lí chỉ thể hiện những quan hệ bắt buộc giữa các giai cấp là một thứ tự do vô nghĩa.
Tự do chỉ là trò hề đối với giai cấp bị bóc lột, vì tự do chỉ ban cho họ những quyền trừu tượng thiếu hẳn nội dung cụ thể. Vì tự do không thể nào có những nơi mà quần chúng chưa ý thức được
các quyết định ở ngoài ý chí ràng buộc họ. Con người giải phóng mới có
tự do, và trước khi được giải phóng, con người không thể nào có tự do.
Tự do không thể nào có một giá trị tuyệt
đối khi cách mạng chưa thực hiện xong một xã hội không giai cấp. Bản
Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1789 chỉ biểu hiện một giai đoạn của lịch sử,
giai đoạn hưng khởi của giai cấp tư sản mà thôi.
Ý thức như thế thì các định chế trong một xã hội tư bản chủ nghĩa nếu có giá trị, thì chỉ là giá trị một giai đoạn dẫn tới cuộc giải phóng tương lai.
Những gì giúp cho cuộc giải phóng ấy mau tiến tới đều là tốt cả, nên
một chế độ độc tài chuyên chế, có thể hữu ích nếu chế độ ấy giúp được
cho công cuộc giải phóng nói trên, đó là trường hợp chế độ độc tài vô
sản. Chỉ có cái tự do ngày mai, cái tự do chân thật và chung
quyết mới là quyết định. Cái tự do ngày nay chưa phải là cái tự do chân
chính và tuyệt đối, nên không cần lưu tâm cho lắm làm gì.
2. Dân chủ thực sự cũng chỉ có
thể thực hiện trong một xã hội không giai cấp. Trong một xã hội tư bản
chủ nghĩa, dân chủ chỉ là một công cụ đàn áp của giai cấp thống trị.
“Dân chủ trong chế độ tư bản chủ nghĩa bao giờ cũng bị lồng trong một
cái khung bóc lột hết sức chật hẹp của bọn tư bản và vì vậy mà bao giờ
cũng chỉ là dân chủ của bọn thiểu số, của kẻ giàu sang, của giai cấp hữu
sản. Người ta ban phép cho những kẻ bị áp chế mấy năm một lần được cử
một số người của giai cấp thống trị ra làm đại biểu cho họ và luôn thể
đặt cái ách thống trị lên trên đầu họ”.
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng
giai cấp công nhân không thể lợi dụng chế độ dân chủ tư bản chủ nghĩa
kiểu cổ điển để làm một lợi khí cho cách mạng. Giai cấp công nhân phải
biết tham gia những cuộc liên minh “chiến thuật” tạm thời với các phần
tử tư sản và không thể để mình mắc cái bệnh ấu trĩ cộng sản chủ nghĩa mà
bị cô lập. Dù sao dân chủ cổ điển của xã hội tư bản cũng là một bước
tiến, một giai đoạn cần thiết và là con đường ngắn nhất để tiến đến độc
tài vô sản.
Tóm lại, cũng như đối với sự tự do, dân
chủ chỉ có nghĩa sau khi hoàn thành cuộc cách mạng. Còn từ nay đến đó,
dân chủ chỉ tiêu biểu một giai đoạn lịch sử với một giá trị tương đối mà
thôi.
Mục II: NHỮNG ĐỊNH CHẾ CHÍNH TRỊ NGA SÔ
Những định chế chính trị Nga-Sô không
những liên hệ mật thiết đến chủ nghĩa Mác-xít mà còn gắn liền với lịch
sử chính trị, tuy tương đối ngắn nhưng rất sôi nổi. Bởi thế, trước khi
đi sâu vào các cơ quan công quyền, thiết tưởng nên tóm lược một vài nét
chính của lịch sử Nga-Sô.
Đoạn 1: TÓM TẮT LỊCH SỬ
A. Một vài sự kiện lịch sử
Thiết lập được gần 50 năm chính thể Xô-viết đã có một lịch sử chính trị rất phong phú.
1917: bởi nhiều nguyên do mà nguyên do
chính là tình thế quân sự, Nga hoàng thoái vị. Một chính thể lâm thời
lập nên. Đồng thời, những Xô-viết công nhân, binh sĩ cũng được tổ chức
mỗi ngày một nhiều. Lenin, trở về Nga ngày 16-4-1917, ông là lãnh tụ
Đảng “Bôn-sê-vik”, đảng này lần lần nắm cả quyền bính trong Ủy ban Chấp
hành Trung ương Xô-viết. Nhờ hành động đúng vào lúc nguyện vọng hòa bình
tha thiết của quần chúng Nga, bấy giờ đang có chiến tranh với Đức,
Lenin với hai khẩu hiệu: Hòa bình tức khắc và Đất về nông dân đã lật được Chính phủ lâm thời và vị nguyên thủ Kerenski và thực hiện được cuộc Cách mạng tháng Mười.
Rồi Đại hội Xô-viết công bố trao chủ
quyền Nhà nước cho các ủy viên nhân dân, trong số có hai yếu nhân đáng
chú ý là Lenin và Trotsky. Và Hòa ước Nga-Đức kí kết xong ngày 3-3-1918
tại Brest-Litovsk.
Mặc dầu chiến tranh bên ngoài đã kết
thúc, cuộc nội chiến ngày càng rối rắm do sự can thiệp của Đồng minh.
Chính thời kỳ này là thời kỳ ban hành Hiến pháp mùng 10 tháng 8 năm 1918
và khởi đầu chế độ cộng sản thời chiến tranh.
1921: khi nội chiến kết thúc, nước Nga
bị đặt trước một tình trạng chính trị và kinh tế rất trầm trọng. Lenin,
bởi biết rằng “khi hoàn cảnh đổi thay thì phải đổi thay phương pháp”
liền bỏ chính sách xã hội chủ nghĩa cứng rắn vẫn thi hành từ trước và mở
một kỉ nguyên mới gọi là kỉ nguyên chính trị và kinh tế mới.
Chính giữa lúc ấy, ngôi sao của Stalin
bắt đầu tỏ rạng: ông được cử làm bí thư Đảng Cộng sản năm 1922. Ngày
30-10-1922, Hiến pháp Liên bang thứ nhất đã được đại hội Xô-viết Liên
bang thông qua, sau khi sửa chữa một vài điều khoản và được công bố ngày
31-1-1924. Hiến pháp này thực ra chưa được hoàn toàn dân chủ, song đó
là vì còn đang ở trong thời kỳ vô sản độc tài, Hiến pháp phải trù liệu
những biện pháp tiến hành việc giáo dục quần chúng và tiêu trừ triệt để
những kẻ thù của chế độ.
1924: Lenin mất. Sau đó xẩy ra cuộc
giành quyền giữa Trotsky và Stalin. Mặc dầu được nhiều uy thế và có công
lớn với cách mạng, Trotsky lần lần bị thải trừ và bao nhiêu quyền bính
đều lọt vào tay Stalin, tuy bấy giờ ông này chính thức, mới chỉ là Tổng
Bí thư trung ương đảng bộ – Chủ trương của Stalin cố nhiên cùng thắng
với ông. Đó là chủ trương xây dựng “Xã hội chủ nghĩa trong một nước”
trước đã, đối lập với chủ trương của Trotsky muốn gây “cách mạng thường
trực trong khắp hoàn cầu”.
Bấy giờ chính là thời kỳ phát động những
kế hoạch năm năm có mục đích trang bị cho nước Nga về phương diện kĩ
nghệ hiện đang thua sút các nước khác rất nhiều, tập thể hóa kinh tế
nông thôn.
Những năm sau, chương trình trên vẫn
được xúc tiến đều, cho tới khi Hitler lên nắm chính quyền tại Đức thì
chương trình lại lần lần ngả về kinh tế chiến tranh.
1936: Hiến pháp hiện đương thi hành được
biểu quyết và ban hành cho mãi tới ngày 26-12-55 mới do Xô-viết tối cao
Liên Sô (khóa thứ bốn) sửa đổi và bổ sung.
Vậy bản Hiến pháp hiện hành tại Liên Sô chính là bản Hiến pháp năm 1936 đã sửa đổi và bổ sung ngày 26 tháng 12 năm 1955 vậy.
B. Nhận định
Xã hội Liên Sô ngày nay không còn giai
cấp nữa hiểu theo nghĩa giai cấp của cộng sản. Liên Sô là một “Nhà nước
xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân”. Tuy nhiên, đó chỉ mới là
“giai đoạn hạ tầng” của chủ nghĩa cộng sản và từ giai đoạn ấy bước sang
“giai đoạn thượng tầng”, con đường còn thấy rất xa. Thật vậy, ta có thể
nói mà không sợ cải chính rằng con đường từ “giai đoạn hạ tầng” bước
sang “giai đoạn thượng tầng” còn sẽ kéo dài ra mãi. Tại sao?
1. Cuộc cách mạng thiết lập độc tài vô
sản đã xảy ra tại một nước vốn còn đang ở trong thời kỳ rất lạc hậu về
phương diện kĩ thuật là nước Nga năm 1917. Bởi vậy tất cả vấn đề đặt cho
nước Nga khi ấy, cũng như bây giờ, là phải động viên toàn lực để trang
bị cho nước được cường thịnh về mặt kĩ nghệ và canh nông, điều mà theo
lí thuyết của Mác, có thể tránh được, nếu cuộc cách mạng xảy ra tại một
nước đã được kĩ nghệ hóa tới một mức cao. Stalin đã hành động đúng, khi
ông đặt những kế hoạch 5 năm. Song những kế họach ấy muốn hoàn thành, tự
nhiên cần phải duy trì một bộ máy Nhà nước vĩ đại để đôn đốc và kiểm
soát. Nhưng duy trì một bộ máy Nhà nước như vậy tức là đi ngược với chủ
trương làm “suy yếu Nhà nước” của Chủ nghĩa Mác-Lenin.
2. Trong giai đoạn hiện tại, Liên Sô
chọn con đường “chủ nghĩa xã hội trong một nước trước đã” của Stalin
chống lại với con đường của Trotsky.
Như thế thì tất nhiên Liên Sô phải chú ý
nhiều đến việc nuôi sống dân trong một hoàn cảnh quốc tế khá tế nhị gồm
những nước tư bản chủ nghĩa bao giờ cũng là thù địch của mình. Tâm
trạng bị bao vây là tâm trạng có thật của các nhà lãnh đạo Nga. Liên Sô
còn phải trù liệu, chẳng những từ trước mà nhất là ngày nay một bộ máy
quân sự khổng lồ. Tất cả những yếu tố này đều chống lại chủ trương làm
“suy yếu Nhà nước”.
Và như thế “bộ máy Nhà nước” không những
vẫn còn mà lại được tăng cường, độc tài vô sản vẫn tiếp tục ngự trị cho
đến một ngày vô định…
Đoạn 2: NHÀ NƯỚC NGA SÔ
Nga-Sô là một quốc gia Liên bang với một tổ chức chính quyền khá đặc biệt.
A. Chế độ Liên bang
Liên bang Cộng hòa Xã hội Xô-viết, danh hiệu này nói lên một số đặc điểm của giải pháp Xô-viết về mối tương quan giữa Quốc dân và Nhà nước.
1. Liên Sô là một Nhà nước Liên bang. Chế độ Liên bang gồm nhiều cấp bực.
Liên Sô là Liên bang các nước Cộng hòa Xô-viết, song các nước Cộng hòa
Liên minh này có thể trở thành những Nhà nước Liên bang và tập hợp những
nước Cộng hòa Xô-viết tự trị lại. Thí dụ, một trong những nước Cộng hòa
Liên minh quan trọng nhất là Cộng hòa Liên bang xã hội chủ nghĩa
Xô-viết Nga gồm 15 nước Cộng hòa tự trị: Talari, Mongoli…[1]
Ngoài ra, lại có những quận “tự trị”
những vùng tự trị. Tóm lại, trong Liên bang Xô-viết, chúng ta tìm thấy:
Cộng hòa Xô-viết liên minh, Cộng hòa tự trị, Vùng tự trị, Quận tự trị.
2. Sự phân quyền giữa Liên bang và các Tiểu bang còn có một ý nghĩa quan trọng khác. Do đạo luật sửa đổi ngày 1-2-1944, mỗi nước Cộng hòa liên minh có quyền ngoại giao nghĩa là quyền trực tiếp giao thiệp với các nước ngoài,
kí hiệp ước trao đổi đại diện ngoại giao và lãnh sự với các nước ấy.
Bởi thế, tại Liên hiệp quốc, ngoại đại diện của Liên Sô, còn có đại diện
của Cộng hòa liên minh Nga và Cộng hòa liên minh Ukraine nữa.
Ngoài thẩm quyền dành riêng cho Liên
bang, mỗi Cộng hòa Liên minh có một sự tự trị nội bộ khá rộng rãi (Hiến
pháp, Lập pháp, Hành chính, quân đội riêng) và quyền tự do rút khỏi Liên bang bất cứ lúc nào.
3. Trên phương diện pháp lí, đặc điểm thứ ba của Liên bang Nga-Sô là không căn cứ trên nền tảng lãnh thổ và dân tộc: nghĩa là Liên bang mở ra cho mọi nước Cộng hòa xã hội Xô-viết, mặc dầu ở đâu và thuộc chủng tộc nào. Sự gia nhập Liên bang Nga-Sô dễ dàng như thế.
Với những đặc tính ấy, các phát ngôn
viên của Liên Sô thường ngày vẫn lớn tiếng ca ngợi chế độ Liên bang
Xô-viết cho rằng đó là Liên bang rộng rãi hơn chế độ Liên bang cổ điển
nhiều. Vì Liên Sô kết tập được cả những dân tộc bị trị và làm thành một
khối tuyệt đối tự do. Liên Sô cho rằng chính họ đã tìm được một phương
thức liên minh mới và giải quyết được các vấn đề cũ kĩtừ xưa chưa ai
giải quyết được là vấn đề “quốc tính” của mỗi dân tộc. Hiện nay có hơn
một trăm quốc tính khác nhau sinh hoạt trên lãnh thổ Liên Sô. Tuy nhiên,
những người chỉ trích thường đáp lại rằng điều mà Liên Sô tự hào là tự
do rộng rãi đó, chỉ là cái vỏ ngoài. Thật ra, mỗi thống nhất thật tại
Liên Sô hoàn toàn do đảng Cộng sản nắm giữ và những cái gọi là cơ quan
liên minh đều ở dưới quyền hành duy nhất và trực tiếp của Đảng này.
B. Tổ chức chính quyền
Để có một ý niệm tổng quát về tổ chức
chính quyền tại Liên Sô, chúng ta sẽ lần lượt phân tích những cơ quan
công quyền cùng vấn đề phân phối thẩm quyền giữa các cơ quan.
1. Những cơ quan công quyền
Các cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước Liên bang gồm có: Xô-viết tối cao, Chủ tịch đoàn, Hội đồng Bộ trưởng.
a. Xô-viết tối cao: là “cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước Liên Sô” gồm hai viện: Xô-viết Liên bang và Xô-viết dân tộc.
Chế độ lưỡng viện này là hậu quả tất nhiên của chế độ Liên bang, vì
Xô-viết Liên bang đại diện toàn thể công dân Liên Sô (cứ 300.000 dân thì
bầu một đại biểu). Còn Xô-viết dân tộc do công dân Liên Sô ở trong các
nước cộng hòa liên minh và tự trị, những tỉnh tự trị và quận dân tộc bầu
ra, mỗi nước Cộng hòa liên minh 25 đại biểu, mỗi nước Cộng hòa tự trị 11 đại biểu, mỗi tỉnh tự trị 5 đại biểu và mỗi quận tự trị 1 đại biểu.
Hai viện trong Xô-viết tối cao đều ngang quyền nhau.
Nhiệm kì của cả hai viện cùng là 4 năm. Hai viện cũng có sáng quyền lập pháp. Một dự án luật chỉ được xem là đạo luật sau khi được mỗi viện thông qua bằng
đa số tương đối. Mỗi viện bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch. Những cuộc
họp chung của hai viện trong Xô-viết tối cao Liên Sô do Chủ tịch
Xô-viết Liên bang và Chủ tịch Xô-viết dân tộc thay phiên nhau chủ tọa.
Xô-viết tối cao họp mỗi năm hai lần do
Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao triệu tập. Những kỳ họp bất thường do Chủ
tịch đoàn Xô-viết tối cao tự ý triệu tập hoặc theo yêu cầu của một trong
các nước cộng hòa liên minh.
Trong trường hợp có sự bất đồng ý kiến
giữa Xô-viết Liên bang và Xô-viết dân tộc thì vấn đề sẽ đưa ra trước một
hội đồng hòagiải do hai viện lập ra.
Nếu hội đồng hòa giải không đưa tới kết
quả thỏa đáng thì vấn đề sẽ đưa ra xét lại lần thứ hai ở từng viện: Nếu
sự bất đồng ý kiến giữa hai viện không giải quyết được thì Chủ tịch đoàn
Xô-viết tối cao giải tán Xô-viết tối cao và ấn định tuyển cử mới.
b. Chủ tịch đoàn – là một cơ
quan rất đặc biệt về thành phần cũng như về quyền hành, do Xô-viết tối
cao bầu ra trong cuộc họp chung của hai viện và gồm: Chủ tịch Chủ tịch
đoàn, 15 Phó Chủ tịch, Bí thư Chủ tịch đoàn và 20 ủy viên, cộng lại là
37 nhân viên hợp thành một nghị hội nhỏ.
Ủy ban thường vụ của Xô-viết tối cao
giữa hai khóa họp không quá mười ngày. Các nhiệm vụ của Chủ tịch đoàn có
thể được phân tích như sau:
- Triệu tập các khóa họp thường và bất thường của Xô-viết tối cao
- Ban hành các đạo luật, sắc lệnh
- Giải thích các đạo luật và hủy bỏ những nghị định và quyết định xét không phù hợp với luật pháp
- Giải tán Xô-viết tối cao
- Tổ chức trưng cầu dân ý
- Cách chức và chỉ định một số Tổng trưởng theo đề nghị của hội đồng Tổng trưởng
- Phê chuẩn các hiệp ước quốc tế
- Tuyên bố tình trạng chiến tranh
- Ra lệnh tổng động viên.
Với những nhiệm vụ vừa kể ta có thể nói
rằng Chủ tịch đoàn nắm quyền lãnh đạo thực sự và trên phương diện pháp
lí, đây là một chế độ Hội đồng.
c. Hội đồng Tổng trưởng – là
Chính phủ Liên Sô do Xô-viết tối cao Liên Sô lập ra trong cuộc họp chung
hai viện. Theo Hiến pháp, thành phần của hội đồng này không phải chỉ
gồm có Bộ trưởng, mà còn có một số chuyên viên như:
- Chủ tịch ủy ban kế hoạch dài hạn kinh tế quốc dân
- Chủ nhiệm ủy ban kế hoạch ngắn hạn kinh tế quốc dân
- Chủ tịch ủy ban công an của Nhà nước
- Chủ tịch ban Giám đốc Ngân hàng quốc gia v.v…
Có hai điều đáng lưu ý về tính chất các Bộ của Liên Sô. Trước hết, trong các Bộ này, có những Bộ gọi là Bộ Liên bang và có những Bộ gọi là Bộ Liên bang Cộng hòa.
Các Bộ Liên bang điều khiển ngành hành chính Nhà nước trên toàn lãnh
thổ Liên Sô, do từng Bộ phụ trách, hoặc trực tiếp bằng những cơ quan do
Bộ chỉ định. Còn các Bộ Liên bang Cộng hòa điều khiển ngành hành chính
Nhà nước do mình phụ trách bằng cách gián tiếp qua các Bộ sở quan của
nước cộng hòa liên minh và chỉ điều khiển trực tiếp một số xí nghiệp
nhất định và có hạn, theo một danh sách đã được Chủ tịch đoàn Xô-viết
tối cao duyệt.
2. Vấn đề phân phối chính quyền:
Qua sự phân tích trên ta thấy Xô-viết tối cao chẳng qua cũng chỉ là một
Nghị viện của các nước Tây phương, Hội đồng Tổng trưởng là một Chính
phủ, và Chủ tịch đoàn là một thứ Quốc trưởng đoàn. Sự thật phức tạp hơn
thế nhiều, và muốn hiểu rõ các định chế của Liên Sô, chúng ta nên lưu ý
đến cách thức phân phối thẩm quyền đặc biệt.
a. Trước nhất có một sự khác biệt giữa các “cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước” và các “cơ quan hành chính Nhà nước”.
Cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước là Xô-viết tối cao và Chủ tịch đoàn, cơ quan, đại biểu thường trực của Xô-viết tối cao.
Trái lại, Hội đồng Tổng trưởng chỉ là “cơ quan Hành pháp và hành chính của chính quyền Nhà nước Liên Sô”.
b. Sự lệ thuộc của những cơ quan hạ cấp đối với những cơ quan thượng cấp
Trước hết các đại biểu lệ thuộc cử tri vì họ có quyền bãi miễn bất cứ lúc nào, bằng quyết nghị của đa số.
Xô-viết tối cao tấn phong Chủ tịch đoàn,
và Hội đồng Tổng trưởng. Hội đồng Tổng trưởng chịu trách nhiệm trước
Xô-viết tối cao và trong khoảng thời gian giữa các khóa họp của Xô-viết
tối cao, trước Chủ tịch đoàn. Chủ tịch đoàn chịu trách nhiệm trước
Xô-viết tối cao, vì Chủ tịch đoàn chỉ là một cơ quan đại biểu thường
trực của Xô-viết tối cao và vì Chủ tịch đoàn phải “báo cáo mọi hoạt động
của mình trước Xô-viết tối cao”.
c. Không có một sự phân chia rõ rệt quyền Lập pháp và Hành pháp.
Chiếu theo Hiến pháp, Xô-viết tối cao có quyền Lập pháp và mọi thẩm
quyền Liên bang nào không thuộc thẩm quyền các Tiểu bang. Các Tổng
trưởng có quyền hành chính và chấp hành Lập pháp, nghĩa là quyền Hành
pháp của các nước Tây phương vậy. Sự phân biệt trên đây có thể nói là
tương đối rõ rệt, nhưng khi nói đến chức trưởng của Chủ tịch đoàn, ta
mới thấy những điều phức tạp.
Trước hết, một số nhiệm vụ của Xô-viết
tối cao được trao cho Chủ tịch đoàn trong khoảng thời gian giữa các khóa
họp và, vì thế, tư cách đại biểu thường trực Xô-viết tối cao Chủ tịch
đoàn biểu hiện thực rõ rệt. Quyền kiểm soát của Chủ tịch đoàn đối với
các Bộ trưởng, quyền chỉ định hay cách chức và quyền tuyên bố tình trạng
chiến tranh, cũng biểu hiện rõ rệt. Sau nữa những chức trưởng khác của
Chủ tịch đoàn mà điều 49 của Hiến pháp liệt kê rất dài đều là những thẩm
quyền mà tại các nước Tây-phương người ta thường trao hoặc cho Nghị
viện hoặc cho Chính phủ, tùy theo chế độ coi trọng uy quyền của Nghị
viện hay của Chính phủ. Điều cần lưu ý là trong khi Xô-viết tối cao nắm quyền Lập pháp và hội đồng Bộ trưởng có những nghị định và quyết định trên căn bản đạo luật hiện hành, thì Chủ tịch đoàn lại có những “sắc lệnh”.
Cái hệ thống pháp lí này (đạo luật, sắc
lệnh, nghị định) thật ra trong nhiều nước khác cũng có, nhưng ở Nga-Sô
lại có một ý nghĩa khác biệt; các sắc lệnh Xô-viết là quyết định của cơ
quan thường trực Quốc hội có tính chất của đạo luật. Sau hết, trong số
thẩm quyền của Chủ tịch đoàn có một số quyền thuộc loại giải thích các
đạo luật, hủy bỏ những nghị định, và quyết định không phù hợp với luật
pháp.
Trong điều kiện ấy Chủ tịch đoàn, là cơ
quan đặc biệt nhất của Hiến pháp Xô-viết. Vừa là Quốc trưởng đoàn được
nhiều quyền hành rất rộng rãi, vừa là cơ quan đại biểu thường trực của
một Quốc hội dân cử.
Sở dĩ như thế là vì ý niệm phân quyền không
được áp dụng và được xem là trái nghịch với tinh thần của chế độ. Hội
đồng Tổng trưởng về mặt pháp lí bị đặt trên một bình diện thấp kém, vì
tất cả quyền hạn chỉ là những quyền hạn thi hành luật pháp và hành chính
thường ngày. Ngoài ra, Hội đồng Bộ trưởng còn bị phụ thuộc chặt chẽ vào
Xô-viết tối cao và giữa các khóa họp vào Chủ tịch đoàn, cả về mặt đề cử
lẫn về mặt trách nhiệm. Hội đồng Tổng trưởng Liên Sô không có sự độc
lập của quyền Hành pháp trong chế độ Tổng thống và cũng không có những
phương tiện áp lực đối với Quốc hội như trong chế độ Nghị viện.
Mục III: ĐẢNG CỘNG SẢN
Điều 126 Hiến pháp Nga-Sô:
«Những người công dân hoạt động nhất và
giác ngộ nhất thuộc giai cấp công nhân, nông dân lao động và lao động
trí thức tự do kết hợp cùng nhau trong Đảng Cộng sản Liên Sô, một đội
tiền phong của những người lao động trong cuộc tranh đấu để xây dựng xã
hội cộng sản và một khối lãnh đạo của mọi tổ chức của người lao động,
cũng như mọi tổ chức xã hội và tổ chức Nhà nước.»
Như thế, Đảng Cộng sản là một định chế
tối quan trọng của sinh hoạt chính trị Nga-Sô. Chúng ta sẽ lần lượt phân
tích đặc tính, tổ chức cùng vai trò của «đội tiền phong» này.
Đoạn 1: ĐẶC TÍNH VÀ TỔ CHỨC ĐẢNG CỘNG SẢN
A. Đặc tính
1. Đảng Cộng sản là một độc đảng.
Tính cách này không những không giấu kín
mà chính nhà cầm quyền Nga-Sô còn nêu lên như một đặc điểm quan trọng
của chế độ. Theo lí luận Mác-xít, tính cách thuần nhất của chính đảng
cùng tính cách duy nhất của chính đảng là hậu quả tất nhiên của tình
trạng không còn giai cấp xã hội đấu tranh nữa vì lẽ rằng chính đảng chỉ
là tổ chức chính trị của một giai cấp xã hội. Khi mà không còn giai cấp
nữa, khi mà trong một cộng đồng xã hội chủ nghĩa chỉ còn một sự khác
biệt nho nhỏ giữa những từng lớp xã hội, thì không thể nào có nhiều
chính đảng chống đối nhau. Chỗ nào không có giai cấp đấu tranh, chỗ ấy
không thể có nhiều chính đảng.
Tính cách đơn độc này là một đặc điểm
thứ nhất tối quan trọng. Hậu quả – chúng ta sẽ thấy – là làm đảo lộn
tất cả khía cạnh của tổ chức chính quyền.
2. Thành phần được chọn lọc.
Đặc tính thứ hai là Đảng Cộng sản gồm
những phần tử ưu tú được chọn lọc, trên nguyên tắc phải là những «công
dân hoạt động nhất và ý thức nhất». Nhìn lại lịch sử mặc dù con số đảng
viên càng ngày càng tăng – từ 240.000 năm 1917 đến 10 triệu 1964 – mặc
dù thế, những điều kiện gia nhập Đảng rất là khắt khe. Muốn gia nhập
Đảng Cộng sản:
- Ứng viên phải được ba đảng viên gia nhập đảng ít nhất trong ba năm giới thiệu ;
- Quyết định cho gia nhập do tiểu tổ và chi bộ cấp quận hay đô thị phê chuẩn ;
- Ứng viên phải qua một thời kỳ tập sự là một năm. Sau một năm tiểu tổ và chi bộ xét lại và quyết định coi ứng viên có xứng đáng là đảng viên của Đảng Cộng sản.
Cần phải nhấn mạnh rằng song song với sự
chọn lọc này, tính cách giai cấp của Đảng luôn luôn được chú ý: nghĩa
là những phần tử ưu tú từng ở giai cấp công nhân, nông dân lao động.
B. Tổ chức
Chiếu theo điều lệ, Đảng Cộng sản
Sô-Viết được tổ chức «theo thể thức phân phối sản xuất và theo sự phân
chia của lãnh thổ». Bởi thế cho nên, những tiểu tổ, ở cấp dưới
có thể thành hình theo những tiêu chuẩn nghề nghiệp hay địa dư. Nghĩa là
có thể có tiểu tổ của một xí nghiệp, một hãng, một xưởng, có thể có
tiểu tổ của một vùng họp thành một chi bộ; tất cả các chi bộ
của các vùng trong một Cộng hòa họp thành «đảng» của Cộng hòa. Và tất cả
các Liên bang họp thành Đảng Cộng sản Liên Sô.
Các cơ cấu tổ chức, ở mọi cấp, đều giống nhau: Thường thường có một hội đồng gồm tất cả các đảng viên. Hội đồng không thể luôn luôn nhóm họp, một Ủy ban Chấp hành được bầu lên để đảm nhiệm sự liên tục. Và một Tòa thơ kí văn phòng đảm nhiệm công việc thường ngày.
Nguyên tắc liên lạc chiều dọc: Những
tiểu tổ, hay chi bộ cùng một cấp không có liên lạc với nhau, luôn luôn
liên lạc với cấp trên và chỉ biết hoạt động của tổ chức khác qua sự
trung gian của cấp trên.
Cho đến tháng 11 năm 1952, các cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Nga-Sô gồm có:
- Một đại hội (3 năm họp 1 lần);
- Một ủy ban trung ương, cơ quan tối cao của Đảng trong khoảng thời gian Đại hội (do đại hội bầu ra);
- Một văn phòng tổ chức (do ủy ban trung ương bầu ra);
- Một văn phòng chính trị (do ủy ban trung ương bầu ra);
- Một ủy ban kiểm soát (do ủy ban trung ương bầu ra);
Đại hội lần thứ 19 năm 1952 đã quyết
định cải tổ cơ cấu nói trên. Văn phòng tổ chức và văn phòng chính trị
được sáp nhập lại và cơ quan mới được gọi là Chủ tịch đoàn của ủy ban Trung ương và
gồm một số đông nhân viên (25 thay vì 10 lúc trước); tuy nhiên sau khi
Stalin chết (5.3.1953) lại cải tổ nữa: Chủ tịch đoàn của ủy ban Trung
ương vẫn giữ nguyên nhưng thành phần lại thu hẹp lại còn 10 nhân viên.
Nghĩa là trở lại thời kỳ trước 1952. Bãi bỏ chức vụ Tổng Thư kí. Nhưng
thực tế cho thấy Khrushchev đã lần lần cầm quyền thực sự không kém
Stalin với danh nghĩa «đệ nhất Thư kí», tóm lại:
- Ủy ban trung ương gồm có 133 nhân viên thực thụ và 122 dự khuyết;
- Chủ tịch đoàn 14 nhân viên thực thụ và 9 dự khuyết;
- Văn phòng 9 nhân viên.
Tuy nhiên, Đại hội lần thứ 23 của Đảng
Cộng Sản Nga Sô ngày 29-3-1964 lại cải tổ một lần nữa: chức vụ Tổng thư
kí được tái lập và chủ tịch đoàn trở thành Văn phòng chính trị.
Đoạn 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
Điều khoản 126 «Đảng Cộng sản là một đội tiền phong của những người lao động trong cuộc tranh đấu xây dựng xã hội cộng sản, và là một khối lãnh đạo của mọi tổ chức trong quốc gia ».
Xuyên qua vai trò của Đảng Cộng sản, chúng ta còn thấy rõ thực tế chính trị của một nước Cộng sản.
A. Đảng Cộng sản và Nhà nước Nga-Sô
Không có ai chối cãi rằng vai trò của
Đảng Cộng sản trong Nhà nước Nga-Sô có một tầm quan trọng đặc biệt. Đặc
biệt ở chỗ là, trọng tâm sinh hoạt chính trị không phải ở Xô-viết tối
cao, cũng không phải ở Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao, hay Hội đồng Tổng
trưởng, mà chính ngay ở tại Đảng Cộng sản. Cần phải nhấn mạnh rằng Đảng
điều khiển và chi phối cuộc sinh hoạt chính trị tại Nga-Sô. Những đạo
luật mà Xô-viết tối cao chấp thuận hay là những quyết định của Hội đồng
Tổng trưởng đều được thảo luận và chấp thuận trước tại cơ quan Trung
ương của Đảng.
Tầm quan trọng của Chủ tịch đoàn Xô-viết
tối cao hay Hội đồng Tổng trưởng không phải vì đó là trọng tâm sinh
hoạt chính trị mà trái lại vì trong những cơ quan này hay là đứng đầu
những cơ quan này có những nhân vật của Đảng. Trường hợp điển hình là
Stalin đã từng là Tổng Thư kí của Đảng và Thủ tướng Chính phủ và
Krushchev mới đây mới là Đệ nhất Thư kí và là Thủ tướng Chính phủ.
Tóm lại, trọng tâm sinh hoạt chính trị
tại Nga-Sô không phải nằm trong những cơ quan công quyền mà trái lại
ngay ở Đảng Cộng sản. Vì Nhà nước – theo chủ nghĩa Mác-xít – chỉ là
thượng tầng kiến trúc không quan trọng – trái lại Đảng Cộng sản mới là
đội tiền phong của cuộc xây dựng xã hội cộng sản và khối lãnh đạo của
mọi tổ chức.
B. Đảng Cộng sản và bầu cử
Bầu cử ở Nga-Sô chỉ có tính cách hình
thức. Đảng Cộng sản là đảng duy nhất tại Nga-Sô, sự hiện diện này đưa
đến hai hậu quả quan trọng liên quan đến vấn đề bầu cử: đó là ứng cử
viên duy nhất và tính cách phê chuẩn của cuộc đầu phiếu. Không có sự
cạnh tranh giữa ứng cử viên. Không có sự chọn lựa của cử tri đoàn.
Trên nguyên tắc, thể thức đầu phiếu là
đầu phiếu đa số với hai vòng. Nhưng trong thực tế, một danh sách duy
nhất được đề nghị cho cử tri và danh sách này thường được phê chuẩn đến
99%. Tuy nhiên, điều cần lưu ý và đây là đặc điểm của chế độ tuyển cử ở
Nga-Sô là sự thiết lập danh sách duy nhất ấy. Chính giai đoạn thiết lập danh sách mới là giai đoạn quan trọng trong thực tế chính trị.
Thật vậy, trước ngày bầu cử chính thức,
có nhiều cuộc bầu cử sơ bộ mà mục tiêu là tuyển lựa ứng cử viên sẽ có
tên trong danh sách chính thức. Đảng Cộng sản cũng như nhiều đoàn thể xã
hội (nghiệp đoàn, xí nghiệp hợp tác xã, tổ chức thanh niên, tổ chức văn
hóa v.v…) tất cả đều có quyền đề nghị ứng cử viên trong đơn vị tuyển
cử. Trong các cuộc hội họp tuyển lựa sơ bộ này người ta có thể nêu lên
hai đặc điểm:
- Không có cuộc tranh luận về chính sách, về ý thức hệ;
- Trái lại có cuộc bàn cãi sôi nổi về những nhân vật được đề nghị: khả năng, tác phong, uy tín để phụng sự cho lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt thời gian tiền tuyển cử này,
Đảng Cộng sản luôn luôn có mặt và kiểm soát chặt chẽ. Và cũng suốt trong
thời gian này chúng ta có thể nói cử tri Nga-Sô không có một chút tự do
nào.
Tóm lại có hai giai đoạn:
- Giai đoạn thực tế: tuyển lựa ứng cử viên vào danh sách duy nhất;
- Giai đoạn chính thức: toàn thể cử tri bầu danh sách duy nhất ấy.
C. Đảng Cộng sản và cuộc sinh hoạt trong quốc gia
Trong Liên bang Cộng hòa xã hội Xô-viết,
không ai chối cãi rằng Đảng Cộng sản chi phối mọi hoạt động quốc gia.
Nghĩa là Đảng Cộng sản độc quyền điều khiển không những lĩnh vực chính
trị, mà còn luôn cả lĩnh vực ý thức hệ, xã hội, văn hóa.
Trong cuộc sinh hoạt chính trị,
Đảng Cộng sản là chính đảng duy nhất được xem là hợp pháp, đảng duy
nhất được phép hoạt động. Và chính đảng duy nhất đề nghị ứng cử viên vào
Quốc hội. Hơn nữa, các lãnh tụ của Đảng là nhân vật chiếm các chức vụ
chính trong bộ máy Nhà nước. Hoạt động của các cơ quan công quyền luôn
luôn dưới sự đôn đốc của Đảng và chấp thuận của Đảng.
Thật vậy, tất cả những cải cách, những
quyết định quan trọng, như cải cách điền địa, cải cách kĩ nghệ v.v… đều
được thảo luận trước tại cơ quan của Đảng và chỉ đem ra thảo luận tại cơ
quan công quyền sau khi Đảng đã có lập trường về các vấn đề ấy. Tóm lại, Đảng có độc quyền toàn diện.
* Độc quyền ý thức hệ: Thật vậy, mọi nhận định, mọi chủ trương về triết lí, về khoa học, về mỹ thuật đều phải căn cứ trên thuyết Mác-xít, như Đảng đã giải thích.
Trong xã hội Nga-Sô, không có vấn đề chính kiến hay triết lí khác biệt.
Và trên bình diện ý thức hệ này, có một lĩnh vực cần phải lưu ý là lĩnh
vực tôn giáo. Theo quan điểm Mác-xít, tôn giáo chỉ là thượng tầng kiến trúc của một xã hội phân chia giai cấp. Tôn giáo phản ảnh sự di nhượng của con người.
Thế là nghĩa thế nào? Như các bạn đã biết, theo Mác, loài người ở trong
vũ trụ luôn luôn bị chi phối bởi những quyết định thiên nhiên, ở ngoài ý
chí của mình. Khi mà loài người chưa làm chủ được những lực lượng thiên
nhiên, loài người vẫn phải lệ thuộc ảnh hưởng các lực lượng này và luôn
cả các điều kiện xã hội do kĩ thuật sản xuất tạo ra. Con người, trong
xã hội tư bản phân chia giai cấp, là một nạn nhân, vì họ bắt buộc phải
di nhượng phần tinh hoa của bản chất mình. Vì phải di nhượng, con người
cần phải đoạt lại những gì mà mình đã từ bỏ. Bởi thế cho nên, tôn giáo
là gì? Chỉ là sự kiện loài người đem những khả năng quyền lợi và giá trị
đạo đức vẫn có trong bản thân mình, phóng ra ngoài, tạo thành một
Thượng đế hoang đường. Vì con người quá khổ – mà sự khổ sở ấy do điều
kiện xã hội tạo ra – cho nên con người thấy cần tìm một cái gì để bù đắp
lại – cái gì đó tức là tất cả hình ảnh hoang đường, vô hình để dựa vào
đó mà cảm thấy an tâm một phần nào. (Con người chỉ nghĩ đến Trời Phật
khi khổ đau, buồn thảm.)
Bởi thế, cho nên tôn giáo là một hiện
tượng giả tạo, giả tạo nhưng tự nhiên trong một giai đoạn tiến triển
nhất định của xã hội, và chỉ khi nào xung đột giai cấp không còn nữa,
khi nào mà con người tự giải phóng được, chinh phục được thiên nhiên và
các lực lượng xã hội vẫn còn chi phối, đến khi đó họ sẽ tìm thấy tính
cách giả tạo của tôn giáo.
* Độc quyền xã hội và văn hóa:
Mọi sinh hoạt xã hội như tổ chức thanh niên, nghiệp đoàn, tất cả đều là
chi nhánh của Đảng Cộng sản và vai trò của các tổ chức chỉ là mối liên
lạc giữa chỉ thị của Trung ương đảng bộ và các cấp thi hành.
Trong lĩnh vực văn hóa cũng thế, mọi
định chế, mọi tổ chức khoa học, mỹ thuật văn nghệ đều bị Đảng chi phối.
Và sự chi phối này rất là chặt chẽ trong tất cả các phương tiện phát
biểu ý kiến: như báo chí, vô tuyến truyền thanh, truyền hình, xi-nê,
sách vở.
Qua các sự kiện liên hệ đến vai trò của
Đảng Cộng sản chúng ta thấy rằng Đảng có mặt luôn luôn và bất cứ ở lĩnh
vực nào. Sự kiện này, theo quan điểm của Mác-xít, là một việc thông
thường. Vì Đảng gồm những phần tử ưu tú và hoạt động nhất. Đảng không
phải một lực lượng chống đối những phần tử của nhân dân không vào Đảng.
Trái lại Đảng là thành phần ưu tú, tiền phong của toàn thể nhân dân. Nói
rằng Đảng rất hùng mạnh, và luôn luôn có mặt và ra chỉ thị, có nghĩa là
nhân dân rất hùng mạnh vì Đảng chỉ là tiêu biểu của nhân dân.
Xuyên qua những định chế
chính trị được trình bày, nhất là vai trò của Đảng Cộng sản, chúng ta có
thể kết luận rằng – cho đến ngày nào thực hiện được giai đoạn thượng
tầng của chủ nghĩa cộng sản – Chế độ Liên Sô là một chế độ độc tài,
chuyên chế mặc dù luôn luôn được đề cao như một chế độ dân chủ nhất hoàn
cầu. Tại sao?
KẾT LUẬN
1. Lí do thứ nhất là sự hiện diện của
Đảng Cộng sản, chính đảng duy nhất được phép hoạt động. Đảng Cộng sản là
cơ quan đầu não của Liên Sô. Như chúng ta đã biết, trong các kỳ tuyển
cử, chỉ Đảng trình ứng cử viên. Không ai có thể ra ứng cử nếu không được
Đảng chấp thuận. Một đảng duy nhất, một danh sách ứng cử viên duy nhất,
thêm vào đó lại không có vận động tuyển cử gì cả, làm sao mà gọi là dân
chủ được? Không có sự tranh luận trong thời kỳ tuyển cử, lại không có
tranh luận gì tại diễn đàn Quốc hội? Nếu chúng ta theo dõi hoạt động của
Xô-viết tối cao, chúng ta sẽ thấy không có gì đáng gọi là tranh luận
tại Quốc hội. Các nghị sĩ liên tiếp lên diễn đàn cùng phô bày một quan
điểm, cùng tán tụng một chính sách, cùng chửi thế giới tư bản rồi cùng
vỗ tay, hoan nghênh và đồng thanh chấp thuận!
Thiếu hẳn một hệ thống tấn phong quốc gia Liên Sô không thể xem là dân chủ được.
2. Lí do thứ hai – và đây là đặc điểm
của các chế độ độc tài hiện đại – là việc sử dụng một hình thức tuyên
truyền độc đáo, một chiều. Và sự tuyên truyền này có tính cách toàn diện
áp dụng cho đứa trẻ từ khi ở học đường đến khi khôn lớn, làm việc:
trong các phong trào thanh niên, qua cuộc sinh hoạt văn hóa hay nghề
nghiệp, ở những nơi giải trí, bất cứ đâu đâu người công dân Liên Sô chỉ
biết nghe, được nhồi sọ bởi một luận điệu một chiều hướng bởi các phương
tiện tân kì ngày nay. Và sự tuyên truyền này được nhắc đi nhắc lại nhằm
đập mạnh vào tâm óc con người để rồi họ có những ý tưởng và hành vi mà
Chính phủ muốn họ có.
Ngày xưa, các chế độ chuyên chế chỉ áp
dụng sức mạnh để áp bức; dù sao hậu quả của nó cũng còn giới hạn. Ngày
nay, kĩ thuật tuyên truyền đã đạt đến mức tinh vi, có thể chiếm hẳn tâm
hồn của con người và uốn nắn con người theo ý muốn của chế độ. Và mỗi
khi đã bị nhồi sọ như vậy, con người không còn có ý niệm phản đối mà trở
thành cái máy tuân theo mệnh lệnh của chính quyền.
3. Như vậy làm sao có cuộc đối thoại tự
do, đặc tính của nền dân chủ? Nếu dân chủ là chế độ trong ấy Chính phủ
dựa trên sự đồng ý của nhân dân, sự đồng ý ấy phải là một sự đồng ý chân
thành của một nhân dân tự do. Với hai lí do trên chúng ta không thể xem
nhân dân Liên Sô là một nhân dân có đủ điều kiện để quyết định tự do
được. Chế độ Liên Sô, chung quy, chỉ là một thứ «chủ nghĩa tư bản nhà
nước» với tất cả những bất công, áp bức và trên bình diện quốc tế, Liên
Sô cũng là một đế quốc không kém gì các đế quốc khác.
(Hết thiên thứ hai Những chế độ chuyên chế, đón xem thiên thứ ba Những chế độ vùng Đông Nam Á)
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
[1] Chúng tôi chưa hiểu rõ chỗ này: Trong 15 nước cộng hòa thuộc Liên Sô trước đây không có những nước nào tên như vậy. (p&c)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét