Nhà nước khủng bố
Nguyễn Hưng Quốc
Ở Việt Nam, từ mấy năm
nay, dư luận thường xôn xao trước hiện tượng công an bắt người trái
phép, mang vào đồn và đánh đập đến chết. Thi thể được mang vào bệnh viện
xét nghiệm, người ta thấy người thì giập phổi, người thì toàn bộ nội
tạng đều bị nát nhừ. Có trường hợp công an thừa nhận dùng nhục hình để
tra tấn; có trường hợp chúng chối phăng, cho là nạn nhân hoặc tự tử hoặc
bị bệnh từ trước hoặc lén lút dùng ma tuý quá liều.
Tổ chức
Human Rights Watch ghi nhận được 31 trường hợp bị đánh chết trong các
trại tạm giam của công an trong bốn năm (2011-2014). Con số này chắc
chắn không đầy đủ. Theo một báo cáo của Bộ Công an mới đây, trong khoảng
bốn năm, từ ngày 1/10/2011 đến 30/9/2014, tổng cộng có 226 người bị
chết trong các nhà tạm giam vì nhiều lý do khác nhau, trong đó, có lý do
là nhục hình. Điều cần lưu ý là công an chỉ thừa nhận việc dùng nhục
hình khi không thể chối cãi được nữa nên những lý do vớ vẩn họ đưa ra
như tự tử hay bị bệnh đều có thể không đúng sự thật.
Tuy nhiên,
điều đáng chú ý không phải chỉ việc công an tra tấn nhiều người đến chết
mà còn một khía cạnh khác không kém quan trọng: khi việc tra tấn bị
phanh phui, không thể giấu nhẹm được nữa, phải mang ra toà xét xử, các
bản án dành cho công an phạm tội tra tấn dẫn đến cái chết của những
người dân vô tội đều rất nhẹ, người thì được tha bổng, người thì bị tù
treo, chỉ hoạ hoằn mới có một số công an bị tù giam, nhưng ngay trong
trường hợp ấy, án tù cũng chỉ vài ba năm, nói theo luật sư Võ An Đôn,
hoàn toàn không có tác dụng răn đe để công an đừng tái phạm.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao công an lại càng ngày lại càng tra
tấn người dân một cách dã man như vậy? và tại sao các bản án dành cho
các công an tra tấn dân chúng đến chết lại nhẹ nhàng đến như vậy? Trả
lời câu hỏi trên, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ không hề đưa
ra chủ trương và hình thức kỷ luật nào để hạn chế các hành động tra tấn
đến chết. Trả lời câu hỏi dưới, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ
cũng không hề muốn trừng phạt những công an phạm tội dùng nhục hình để
bức cung. Hai câu trả lời ấy lại dẫn đến một sự thật khác: Chính phủ
muốn dùng sự khủng bố để đe doạ mọi người.
Khủng bố là hành vi
bạo động nhằm gây hoang mang, lo lắng và sợ hãi trong dân chúng. Về phạm
vi, có hai hình thức khủng bố chính: Khủng bố thuộc tổ chức
(organization terrorism) và khủng bố thuộc nhà nước (state terrorism).
Tiêu biểu nhất cho loại khủng bố thuộc tổ chức gần đây là sự khủng bố
của các nhóm Hồi giáo cực đoan: Họ sống rải rác trên nhiều quốc gia khác
nhau nhưng có chung một nỗi hận thù đối với văn hoá và văn minh Tây
phương, chung một tham vọng muốn phát triển nhà nước Hồi giáo khắp nơi
trên thế giới và chung một biện pháp: sử dụng bạo lực để giết càng nhiều
người càng tốt, gây tiếng vang càng lớn càng tốt và càng làm cho càng
nhiều người khiếp hãi càng tốt.
Khủng bố thuộc nhà nước thì có
hai mức độ: Một, ủng hộ và tài trợ cho các tổ chức khủng bố để chúng
gieo rắc tội ác ở những nơi khác và hai, bản thân nhà nước đóng vai trò
khủng bố đối với dân chúng trong chính nước của họ. Thuộc loại trên,
Tổng thống Mỹ George W. Bush, vào năm 2002, cho có ba quốc gia chính
được gọi là “trục ma quỷ” (Axis of evil), bao gồm Iraq, Iran và Bắc
Triều Tiên. Thuộc loại dưới, tất cả các quốc gia độc tài, với những mức
độ khác nhau, đều là những nhà nước khủng bố: Họ sử dụng bạo lực để làm
dân chúng sợ hãi, từ đó, triệt tiêu mọi ý định phản kháng, hoặc thậm
chí, phản biện.
Trong ý nghĩa đó, không còn hoài nghi gì nữa, nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước khủng bố.
Thật ra, tính chất khủng bố ấy đã xuất hiện ngay từ khi nhà nước Việt
Nam (cộng sản) vừa mới ra đời. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, họ đã có
chính sách tiêu diệt những người đối lập và đối kháng, qua đó, gây khiếp
hãi trong quần chúng để không ai dám chống lại họ nữa. Chính sách này
càng trở thành phổ biến trong cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc
Việt Nam trong giai đoạn 1954-75. Chính sách gọi là “trừ gian diệt bạo”
thực chất là một sự khủng bố. Theo Anthony James Joes, trong cuốn “The
War for South Vietnam 1954-75” (New York: Fraeger, 1989, tr. 46), trong
cuộc chiến tranh Nam Bắc, Việt Cộng đã giết khoảng 20% các cán bộ làng
xã ở miền Nam. Chỉ trong năm 1960, họ giết khoảng 1.400 công chức và
thường dân; năm 1965, con số bị họ giết lên đến 25.000 người. Theo
Walter Laqueur, trong cuốn “Guerrilla, a Historical and Critical Study”
(London: Weidenfeld and Nicolson, 1977, tr, 262-271), những sự khủng bố
của chính quyền miền Bắc có quy mô và mức độ tàn độc hơn cả Trung cộng
trong cuộc chiến chống lại Tưởng Giới Thạch trong thập niên 1940.
Đó là thời chiến tranh. Tại sao bây giờ, thời bình, chính quyền lại
tiếp tục sử dụng các biện pháp khủng bố như vậy đối với dân chúng?
Câu trả lời, theo tôi, là vì họ sợ.
Chính quyền Việt Nam hiện nay thừa biết dân chúng không còn tin họ,
không còn phục họ, và sẵn sàng đứng dậy chống lại họ khi quyền lợi của
người dân bị xâm phạm. Bởi vậy, chính quyền quay mặt làm ngơ, nếu không
muốn nói là âm thầm khuyến khích, việc công an dùng nhục hình đối với
dân chúng. Chính quyền không hề có ý định răn đe công an. Chính quyền
chỉ muốn răn đe dân chúng: Chống lại chính quyền thì chỉ có chết!
Bất cứ chế độc tài nào cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng: tuyên
truyền và khủng bố. Công việc tuyên truyền của chính quyền Việt Nam gần
đây rõ ràng là đã thất bại: Họ không còn thuyết phục được dân chúng về
tính chính nghĩa của họ, đặc biệt trước hai vấn nạn: dân chủ và chủ
quyền (đặc biệt ở Biển Đông). Thất bại về tuyên truyền, họ chỉ còn cách
duy nhất là gia tăng mức độ khủng bố.
Mục tiêu của khủng bố là
làm cho dân chúng sợ. Nhưng động cơ thực sự của sự khủng bố là sợ dân
chúng nổi dậy chống lại chính quyền.
Nguồn: VOA Tiếng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét