Trong bài viết “Sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” được đăng tải trên báo Nhân Dân ngày 05/06 vừa qua,
ông Trương Minh Tuấn (Bộ trưởng Bộ TT&TT) khẳng định, các thành tựu
phát triển đất nước trong các năm qua đã chứng minh thể chế kinh tế của
chúng ta là đúng đắn, là phù hợp với mục đích của cách mạng Việt Nam.
Điều này thực sự đúng?
Nội dung bài viết trên báo Nhân Dân của ông Bộ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn đề cập đến sự tất yếu của Kinh tế thị trường định hướng XHCN. |
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời từ chương trình
cải cách kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành từ năm 1986. Những
cải cách này cho phép sở hữu tư nhân trong các doanh nghiệp nhỏ bên cạnh
doanh nghiệp nhà nước. Thêm vào đó, những cải cách này cũng cho thấy
vai trò lớn giữa các lực lượng thị trường với hoạt động kinh tế giữa các
doanh nghiệp và cơ quan chính phủ.
Mục tiêu của hệ thống kinh tế này là để cải thiện lực lượng sản xuất của
nền kinh tế, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng
của chủ nghĩa xã hội, và cho phép Việt Nam hội nhập sâu hơn với nền kinh
tế thế giới.
Dù thế, Kinh tế thị trường định hướng XHCN, doanh nghiệp tư nhân đóng một vai trò nhỏ trong tổng thể nền kinh tế.
Tuy nhiên, khoảng cách giàu nghèo và sự bất ổn xã hội đang được kéo
giãn. Yếu tố xã hội chủ nghĩa về mặt quyền sở hữu, yếu tố sản xuất, phân
phối lợi ích kinh tế ngang bằng trong xã hội đang trong tình trạng
thiếu sự điều hòa/ cân bằng. Tăng trưởng kinh tế trong vài năm trở lại
đây đã chậm lại, tham nhũng là kết quả của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”
đang tràn lan, đặc biệt trong lĩnh vực nhà nước. Đời sống của người dân
như đề cập là “bấp bênh”, xuất phát từ trạng thái lạm phát tăng vọng do
thiếu chính sách tiền tệ thích hợp và quản lý kém gắn với căn bệnh “thu
nhập bẫy trung bình”.
Sở hữu tập thể trong nền kinh tế đã và đang trở thành những lực cản chủ chốt trong sở hữu tư nhân (cần nhấn mạnh rằng khu vực kinh tế tư nhân đã không được hưởng lợi từ chính sách tín dụng mở rộng - như các chính sách kích thích kinh tế trong năm 2009 - nhưng đã phải gánh chịu những tác động của chính sách thắt chặt tín dụng vào năm 2011. Và bản thân của nền kinh tế/ tài khóa vẫn chưa có một giải pháp đủ lớn để ngăn chặn nguy cơ sụp đổ - vốn được nhắc đến gần đây. Điều đó cho thấy rằng, những hỗ trợ cho kinh tế tư nhân chỉ mang tính chất “miễn cưỡng chứ không phải hỗ trợ”, nó khác hoàn toàn so với Trung Quốc, khi mà khu vực tư nhân đã được công nhận là một đối tác quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia.
Sở hữu tập thể trong nền kinh tế đã và đang trở thành những lực cản chủ chốt trong sở hữu tư nhân (cần nhấn mạnh rằng khu vực kinh tế tư nhân đã không được hưởng lợi từ chính sách tín dụng mở rộng - như các chính sách kích thích kinh tế trong năm 2009 - nhưng đã phải gánh chịu những tác động của chính sách thắt chặt tín dụng vào năm 2011. Và bản thân của nền kinh tế/ tài khóa vẫn chưa có một giải pháp đủ lớn để ngăn chặn nguy cơ sụp đổ - vốn được nhắc đến gần đây. Điều đó cho thấy rằng, những hỗ trợ cho kinh tế tư nhân chỉ mang tính chất “miễn cưỡng chứ không phải hỗ trợ”, nó khác hoàn toàn so với Trung Quốc, khi mà khu vực tư nhân đã được công nhận là một đối tác quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia.
Riêng đối với hệ thống kinh tế nhà nước, vốn được đánh giá là “trụ cột”
của nền kinh tế, nay so với khu vực tư nhân thì tăng trưởng và độ năng
động kém hơn, trong khi được ưu đãi nhiều hơn. Rõ ràng, sự hình thành
một chiến lược quản trị trong khối doanh nghiệp nhà nước (vốn quen ăn ưu
đãi cơ chế) là một thách thức không hề nhỏ (trong đó cổ phần hóa doanh
nghiệp chỉ là bước đầu tiên) để xóa bỏ sự vô trách nhiệm của nhiều doanh
nghiệp nhà nước, xóa bỏ tình trạng hoạt động trong các ngành thay thế
như đầu tư bất động sản, tài chính và các ngành dịch vụ khác (thay vì
sản xuất các hàng hóa sản xuất để xuất khẩu).
Cần nhắc lại, mặc dù vào đầu năm 2004, Thủ tướng Phan Văn Khải đã kêu
gọi cổ phần hóa trong các lĩnh vực như năng lượng, hàng không, viễn
thông, ngân hàng, bảo hiểm và mở ra một vai trò thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, đến tháng 4/2004, Bộ Tài chính đã đưa ra một đề xuất mang
tính hạn chế, theo đó: “Nhà nước cần giữ cổ phần chi phối trong các lĩnh
vực chính hoặc lĩnh vực 'nhạy cảm' liên quan đến an ninh như ngành
điện, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông.” Tiếp đó, Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh khẳng định sự cải cách sẽ vẫn diễn ra nhưng theo cách rất “cải
lương”: Cải cách DNNN quan trọng để đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong thúc đẩy hội nhập sau vào nền
kinh tế, kể từ thời điểm năm 2007 (gia nhập WTO) dường như đang bị trì
trệ trở lại. Lý do chính của nó là Việt Nam vẫn là một nước dựa vào
nguồn tài nguyên và lực lượng lao động giá rẻ; sản xuất công nghệ thấp
với hàm lượng nội địa không cao (điển hình như Công nghiệp oto với sự
thừa nhận thất bại trong nội địa hóa từ Bộ Công thương Việt Nam). Chưa
dừng tại đó, hầu hết các ngành công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế phụ
thuộc vào các nguồn lực bên ngoài, trong đó bao hàm công nghệ, R&D
và thị trường xuất khẩu. Tất cả đã đưa đến việc, thâm hụt thương mại
khổng lồ (đặc biệt là với Trung Quốc) và hội nhập nghèo vào chuỗi giá
trị toàn cầu. Điều này giải thích tại sao, tính bền vững (chưa đề cập
đến sự thịnh vượng) vẫn là một mục tiêu mà Việt Nam đang hụt hơi theo
đuổi. Gần đây nhất, ngoài việc xóa sổ mục tiêu “công nghiệp hóa” vào năm
2020; xóa sổ ngành công nghiệp ôtô trong nước; thì Việt Nam đã có tỷ lệ
nợ xấu lên đến 600.000 tỷ đồng, trong đó 90% tiền người dân, 10% tiền
ngân hàng.
Các thách thức nêu trên chính là bản chất kéo dài mà nền kinh tế Việt
Nam đang phải hứng chịu và nó sẽ “thải” hệ quả tất yếu trong tương lai.
Tất nhiên, đó là những hệ quả không hề tốt đẹp (khả năng cạnh tranh quốc
tế yếu, tăng trưởng chậm và bất ổn kinh tế vĩ mô) như cách mà ông Bộ
trưởng Bộ TT&TT vẽ nên.
Trong câu chuyện về nền kinh tế, có thể nhìn qua Trung Quốc. Ở khía cạnh
nào đó, cải cách của Trung Quốc mang tính triệt để hơn kể từ năm 1992,
trong khi Việt Nam dừng lại từ năm 1990 khi đã vượt qua khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Một trong số cải cách mang tính cầm chừng của Việt nam là
vấn đề cải cách ruộng đất, khi Trung Quốc chia đất mang tính công bằng
vào giai đoạn 1981-1983 thì Việt Nam lại dựa trên cơ sở cải cách ruộng
đất thời chiến trước đó. Do đó, nếu Trung Quốc thời gian giao quyền sử
dụng đất cho nông dân lên đến 30 năm và không giới hạn sở hữu đất ở mỗi
hộ, thì Việt Nam chỉ dừng ở 20 năm và hạn ché mức 3ha đất. Năm 1998, dù
nhận yêu cầu từ sự sở hữu tư trong đất đai nhằm tạo một sự phân phối
bình đẳng hơn, nhưng Quốc Hội Việt Nam đã từ chối lời đề nghị của Ủy Ban
T.Ư trong mở rộng hợp đồng thuê đất đến 50 năm và bãi bỏ mức trần. Đến
năm 2000, một dự luật mới cho phép sở hữu cá nhân “các trang trại lớn”.
Dù thế, “dồn điền đổi thửa” và “thị trường đất đai” vẫn chưa được hiện
thực hóa đúng chất cho đến ngày hôm nay.
Những yếu tố nêu trên nên về mặt lý thuyết, Việt Nam vận hành thành công
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhưng trên thực tế, lãnh đạo cấp
cao Việt Nam (trong đó có ông Nguyễn Xuân Phúc) liên tục tìm kiếm sự
công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam từ các nước TBCN. Và
điều này vẫn là một cuộc kiếm tìm không lối thoát.
Nghĩa rằng, những thành tựu mà ông Trương Minh Tuấn chỉ ra là bề mặt của
hiện tượng, là kết quả từ chương trình cải cách nửa vời từ năm 1986 đến
nay, và nó đang đến chu kỳ kết thúc. Nếu tiếp tục cải cách nửa vời như
trước đó, tức giữ lại cái đuôi định hướng XHCN thì chu kỳ khủng hoảng
kinh tế - chính trị - xã hội thập niên sẽ quay trở lại trong một tương
lai không xa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét