
Mười năm yên tĩnh 1957-1967 dường
như chỉ là giả tạm. Bên dưới sự yên tĩnh đó, những đợt sóng ngầm của chiến
tranh vẫn âm ỉ. Mâu thuẫn giữa Israel với các quốc gia Ả Rập láng giềng dâng
cao trong một vài năm trước 1967. Các cuộc tấn công khủng bố của fedayeen[1] được
Ai Cập hỗ trợ vào các trung tâm dân cư của Israel tiếp tục tiếp diễn.
Mùa xuân năm 1967, phía Liên Xô
cung cấp cho chính phủ Syria những tin giả là Israel đang chuẩn bị tấn công
Syria; Syria thông báo cho Ai Cập. Ngày 22 tháng Năm, để đáp lại, Ai Cập tuyên
bố ngoài việc yêu cầu quân Liên Hiệp Quốc rút lui khỏi Bán đảo Sinai, họ cũng sẽ
đóng cửa Eo biển Tiran với tàu thuyền “mang cờ Israel hoặc chuyên chở vật liệu
chiến lược”, bắt đầu từ ngày 23 tháng Năm.
Phát biểu trước Liên đoàn thương
mại Ả Rập ngày 26 tháng Năm, Tổng thống Ai Cập là Gamal Abdel Nasser tuyên bố:
“Nếu Israel dấn sâu vào các hoạt động thù địch chống lại Syria hay Ai Cập, thì
trận chiến chống lại Israel sẽ là trận chiến toàn diện, không chỉ giới hạn ở
biên giới Syria hay Ai Cập và mục tiêu cơ bản của chúng ta là hủy diệt Israel.”
Với những hành động gây hấn của
Nasser, bao gồm việc phong tỏa Eo biển Tiran và triển khai quân đội tại Bán đảo
Sinai, gây nên sức ép quân sự và kinh tế lên Israel, cùng với việc Hoa Kỳ còn
đang trù trừ vì vướng vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, lãnh đạo quân sự Israel thấy
rằng chỉ có một khả năng có thể xoay chuyển được tình thế là đánh phủ đầu. Nội
các Israel nhóm họp ngày 23 tháng Năm quyết định mở cuộc tấn công nếu Eo biển
Tiran không được mở trở lại ngày 25 tháng Năm. Lãnh đạo Israel quyết định là nếu
như Hoa Kỳ không làm gì và Liên Hiệp Quốc án binh bất động, thì Israel phải tự
hành động. Ngày 1 tháng Sáu, tướng Moshe Dayan được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng
Israel. Israel đã sẵn sàng.
Tháng Sáu năm 1967, trong một kế
hoạch quyết liệt nhằm hủy diệt Israel, quân đội Ả Rập thống nhất triển khai với
số lượng lớn dọc các đường biên giới với Israel, trong khi Ai Cập đóng cửa Eo
biển Tiran và Nasser yêu cầu Lực lượng Khẩn cấp Liên Hiệp Quốc (UNEF) rời Ai Cập.
Để chuẩn bị cho cuộc chiến, Ai Cập tập trung khoảng 100 ngàn trong tổng số 160
ngàn quân về Bán đảo Sinai, bao gồm toàn bộ bảy sư đoàn (4 sư đoàn bộ binh, 2
sư đoàn xe bọc thép và 1 sư đoàn cơ giới), cũng như bốn lữ đoàn bộ binh độc lập
và bốn lữ đoàn bọc thép độc lập. Không dưới một phần ba trong số đó là các binh
lính kỳ cựu từ cuộc can thiệp của Ai Cập vào nội chiến Yemen cùng với khoảng một
phần ba khác là quân dự bị. Lực lượng này có 900-950 xe tăng, 1.100 xe bọc thép
(APC) và hơn 1.000 khẩu pháo. Không quân Ai Cập được cho là lớn và hiện đại nhất
trong số các quốc gia A Rập, với khoảng 450 máy bay chiến đấu của Liên Xô,
trong đó có nhiều máy bay MiG-21 hiện đại bậc nhất lúc đó. Trong thời gian đó,
Nasser tiếp tục tiến hành các hoạt động nhằm gia tăng mức động viên quân đội từ
Ai Cập, Syria và Jordan, nhằm gia tăng sức ép lên Israel.
Jordan chuẩn bị cho cuộc chiến với
9 lữ đoàn đóng ở Bờ Tây, gồm 45 ngàn quân, 270 xe tăng, 200 trọng pháo, với hai
trung đoàn bọc thép tinh nhuệ tại Thung lũng Jordan. Khoảng 100 xe tăng và một
sư đoàn bộ binh Iraq cũng được đặt ở tình trạng báo động gần biên giới Jordan.
Hai phân đội máy bay chiến đấu Hawker Hunter và MiG-21, cũng được chuyển về gần
các căn cứ sát biên giới Jordan. Syria có 75 ngàn quân, chia làm 9 lữ đoàn, hỗ
trợ bởi xe tăng và pháo binh để chuẩn bị cho cuộc chiến ở vùng Cao nguyên
Golan. Chỉ huy vùng Bờ Tây của Jordan cam kết là “trong vòng 3 ngày chúng ta sẽ
đến Tel Aviv”.
Về phía mình, quân Israel ra lệnh
tổng động viên, bao gồm cả quân dự bị, gồm 264.000 người. Dù số quân đó không
thể duy trì lâu dài, vì quân dự bị đóng vai trò sống còn trong vận hành cuộc sống
hàng ngày của đất nước, phóng viên Hoa Kỳ James Reston, trong New York Times
ngày 23 tháng Năm năm 1967, nhận xét: “Về mặt kỷ luật, huấn luyện, tinh thần,
trang bị và năng lực nói chung, quân đội của Nasser và các lực lượng Ả Rập
khác, không kể đến trợ giúp trực tiếp từ Liên Xô, không phải là đối thủ của người
Israel…”.
Cuộc chiến tranh sáu ngày bắt đầu
ngày 5 tháng Sáu. Lúc 7:45 sáng ngày 5 tháng Sáu, khi còi báo động vang lên
trên toàn Israel cũng là lúc không quân Israel (IAF) mở Chiến dịch Focus
(Moked). Gần 200 chiếc máy bay phản lực cất cánh từ các sân bay Israel ào ạt tấn
công các sân bay của Ai Cập. Cơ sở phòng không của Ai Cập rất yếu, không có sân
bay nào được trang bị boong-ke bọc thép để bảo vệ máy bay. Máy bay của Israel
bay ra Địa Trung Hải trước khi vòng lại hướng về Ai Cập. Trong khi đó, phía Ai
Cập lại tự làm hại mình bằng cách đóng toàn bộ hệ thống phòng không của họ, vì
họ sợ lực lượng nổi dậy Ai Cập có thể bắn hạ máy bay chở Nguyên soái chiến trường
Amer và Trung tướng Sidqi Mahmoud, đang trên đường từ al Maza tới Bir Tamada ở
Sinai để gặp các chỉ huy tại đó.
Dù thế nào đi chăng nữa thì việc
đó cũng không làm tình hình thay đổi mấy, vì các phi công Israel bay rất thấp để
tránh radar và bay dưới tầm mà tên lửa phòng không SA-2 có thể bắn được họ. Các
phi công Israel phối hợp nhiều chiến thuật cùng lúc: ném bom và dùng hỏa lực
oanh tạc các máy bay đang đậu trên đường băng, ném bom xuyên phá đường băng để
máy bay Ai Cập không cất cánh được, làm mồi cho các đợt không kích tiếp theo của
máy bay Israel. Cuộc không kích thành công vượt mức, phá hủy gần như toàn bộ
không quân Ai Cập ngay trên mặt đất. Hơn 300 máy bay Ai Cập bị phá hủy, hơn 100
phi công Ai Cập chết. Phía Israel mất 19 máy bay, phần lớn do trục trặc kỹ thuật,
hay tai nạn. Cuộc không tập mang lại cho Israel ưu thế áp đảo trên không cho đến
hết cuộc chiến.
mirage

Đội hình máy bay Mirage của
Israel năm 1967.
Cùng ngày IAF đồng thời tấn công
các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq. Tới tối, không quân Jordan bị
xóa sổ, không quân Syria và Iraq bị thiệt hại nặng tới mức không còn khả năng
chiến đấu. Sau hai ngày đầu chiến sự, Israel cho biết họ đã phá hủy 416 máy bay
của phe A Rập, trong khi mất 26 máy bay.
Sau những thắng lợi mở đầu của
không quân, Israel mở chiến dịch tấn công toàn diện trên bộ đánh chiếm Bờ Tây của
Jordan ngày 7 tháng Sáu, Dải Gaza và Bán đảo Sinai từ Ai Cập ngày 8, và Cao
nguyên Golan của Syria ngày 9.
Tuy mang tên Cuộc chiến Sáu ngày,
song Israel đã thắng ngay trong ngày đầu tiên, trong vòng vài giờ đồng hồ. Tới
ngày 11 tháng Sáu, các lực lượng Ả Rập buộc phải rút lui và tất cả các bên chấp
nhận lời kêu gọi ngừng bắn của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc theo Nghị quyết
235 và 236. Cuộc chiến kéo dài chỉ vỏn vẹn trong sáu ngày với thắng lợi tuyệt đối
nghiêng về phía Israel: Israel giành được quyền kiểm soát một vùng đất rộng lớn
gồm Bán đảo Sinai, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, Bờ Tây (gồm cả Đông Jerusalem),
và một trong những lăng mộ thiêng liêng nhất của người Do Thái là “Bức tường
phía Tây”[2] (The Western Wall) hay còn gọi là “Bức tường Than Khóc” (The
Wailing Wall), đây là một phần của Đền Thờ còn lại sau cuộc chiến tranh với người
La Mã năm 70.
Israel sau đó sát nhập Đông
Jerusalem vào Tây Jerusalem và từ năm 1980 tuyên bố Jerusalem là thủ đô “vĩnh
viễn và không bị chia cắt của Israel”. Việc này đã gây nhiều tranh cãi vì Đông
Jerusalem vốn được cho là thủ đô đang được chờ đợi của đất nước Palestine tương
lai.
Với kết quả này, lãnh thổ Israel
rộng thêm được 7.099 km2 (2.743 mi2) gồm 5.879 km2 (2.270 mi2) của Bờ Tây (West
Bank), 70 km² (27 mi2) của Đông Jerusalem (Israel đơn phương tuyên bố sáp nhập
năm 1980), và 1.150 km² (444 mi2) của Cao nguyên Golan (Israel tự sáp nhập
không tuyên bố chính thức); với một triệu người Ả Rập bị đặt dưới quyền kiểm
soát của Israel trong các lãnh thổ mới chiếm được. Chiều sâu chiến lược của
Israel kéo dài ra ít nhất 300 km về phía nam, và 20 km lãnh thổ đồi núi hết sức
hiểm trở ở phía bắc, một lá bài an ninh hết sức quan trọng trong cuộc chiến
tranh Yom Kippur sáu năm sau. Bằng Cuộc chiến Sáu ngày, Israel đã hoàn thành mỹ
mãn ý đồ mở rộng phạm vi kiểm soát của người Do Thái tới hầu hết các vùng đất lịch
sử của Israel mà Chủ nghĩa Zion đã theo đuổi ban đầu. Người dân Do Thái tin rằng
Thượng Đế đã đứng về phía họ trong cuộc chiến này.
Đây là một phần trích từ cuốn
sách Câu chuyện Do Thái: Từ Do Thái Giáo đến Nhà nước Israel Hiện đại của tác
giả Đặng Hoàng Xa do Sách Thái Hà dự định xuất bản vào tháng 1/2015.
——————-
[1] Từ bắt nguồn từ tiếng Ba Tư,
chỉ những người tử vì đạo (NBT).
[2] Bức tường phía Tây là một địa
điểm tôn giáo thiêng liêng nhất của Do Thái giáo tọa lạc ở Phố cổ Jerusalem. Ở
đây, có một phong tục thiêng liêng là việc viết một lời cầu nguyện trên một mảnh
giấy và đặt mảnh giấy trong một khe hở tại một nơi nào đó trong bức tường. Hơn
một nửa bức tường, gồm 17 hàng tường nằm ở bên dưới đường phố, có niên đại từ
cuối thời kỳ Đền Thờ thứ hai, được xây dựng vào khoảng năm 19 TCN bởi Herod vĩ
đại. Các lớp còn lại đã được bổ sung thêm từ thế kỷ 7 trở đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét