Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

7872 - New Bedford: 'Chúng tôi thắp sáng thế giới'


BBC Travel

Getty ImagesBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES



Image captionNew Bedford, Massachusetts, từng là thành phố thịnh vượng nhất ở Bắc Mỹ

Ở miền đông nam dưới bờ biển tiểu bang Massachusetts, nằm dưới bóng của bán đảo Mũi Cod xinh đẹp hình chiếc móc câu và những cảng đảo vùng Nantucket và vườn nho Martha's, New Bedford là nơi mà phần lớn du khách phải chạy xe ngang qua.

Lịch sử đầy biến động

Đã hoàn toàn bị quên lãng bên bờ sông Acushnet, khu trung tâm đô thị là di tích của thời hoàng kim vào thế kỷ 19, được gìn giữ như là một công trình lịch sử và là lời nhắc nhở đặc biệt về thời kỳ hưng thịnh và suy tàn của thành phố.
Khu vực dọc theo bến tàu và những con đường lát sỏi vẫn tấp nập người dân địa phương, nhưng chỉ cần đào sâu một chút dưới bề mặt thì chúng ta sẽ thấy những sự thật u tối và phũ phàng hơn nằm ẩn giấu ở mọi ngóc ngách.
Bởi vì New Bedford không như bất cứ thị trấn nào khác. Khi đến thăm, bạn sẽ được biết rằng nơi đây từng là thành phố có thu nhập bình quân đầu người cao nhất Bắc Mỹ. Nhưng bạn cũng sẽ nghe nói rằng đó từng là nơi mà nam giới có khả năng chết dễ hơn 100 lần so với bất kỳ nơi nào khác và rằng những đường phố ở đây đã có thời thấm đẫm máu và nước mắt.
Tác nhân là gì? Săn cá voi.


Mike MacEacheranBản quyền hình ảnhMIKE MACEACHERAN

Nhân viên kiểm lâm Andrew Schnetzer đưa du khách đi qua lịch sử đen tối này vài lần một tuần, nói đi nói lại về chủ đề cấm kỵ, gây chia rẽ và gây tranh cãi này.
Trước hết, ông đưa họ xuống đường William, nơi có trụ sở xây bằng gạch đỏ của Công viên Lịch sử Quốc gia về Săn Cá voi New Bedford. Sau đó họ đi tới đường Water, từng là một nơi có san sát những xưởng làm nến, xưởng đóng thùng, xưởng mộc, xưởng đóng tàu, xưởng rèn, nhà máy lọc dầu, các công ty bảo hiểm và những ngân hàng giàu có nhất trên lục địa.
"Chúng tôi gọi New Bedford là 'thành phố thắp sáng thế giới cũng có nguyên do," Schnetzer nói với tôi trong khi chỉ tay đến nơi từng là con đường sinh lời nhất của Mỹ. "Người Quaker - những người bất đồng tôn giáo vốn định cư ở nơi này đầu tiên - đã phát hiện rằng nếu họ lấy mỡ từ xác cá voi trôi dạt lên bờ, sau đó thắp sáng nó thì họ sẽ có một loại dầu đèn không mùi, không khói mà còn đẹp nữa."

Tài nguyên dồi dào

Mặc dù nghe có vẻ đáng sợ như thế, nhưng dầu cá voi là một tài nguyên dồi dào, và trong nhiều năm hoạt động khai thác dầu cá đã tăng lên gấp 10 lần. Để tăng sản lượng, sáp cá nhà táng dạng lỏng được thu hoạch từ hộp sọ của cá nhà táng bơi qua eo biển Nantucket Sound, sau đó được chế biến thành nhiên liệu.
Điều khiến cho loại nhiên liệu này hấp dẫn như vậy là vì nó sạch hơn, sáng hơn và đắt hơn dầu cá voi thông thường từ sáu đến tám lần.
Chẳng hạn như vào năm 1850, Xưởng Dầu và Nến Hadwen & Barney sản xuất 4.000 hộp nến sáp cá nhà táng, cộng thêm hơn 450.000 gallon dầu cá nhà táng tinh chế có giá trị 300.000 đô la - khoảng 9 triệu đô la theo thời giá ngày nay. Đó là lợi nhuận không lồ mà ít người có thể bỏ qua.
Thậm chí là, theo lời mọi người nói, ta có thể ngửi thấy mùi của New Bedford trước khi nhìn thấy nó.


Mike MacEacheranBản quyền hình ảnhMIKE MACEACHERAN
Image captionNhững người Quakers, nhóm người đầu tiên tới định cư tại khu vực, phát hiện ra mỡ cá voi là thứ có thể dùng để thắp đèn không khói, không mùi và rất đẹp

Chỉ trong vòng một vài thế hệ, những người Quaker làm việc chăm chỉ và chi tiêu dè sẻn đã trở thành những đại gia toàn cầu trong ngành săn cá voi vốn nắm đầu não của một ngành công nghiệp được kiểm soát của những người trên bờ cũng nhiều như những người trên tàu. Và New Bedford đã có tên trên bản đồ thế giới.
'Vào lúc đó, New Bedford cung cấp nhiên liệu cho 5.000 ngọn đèn đường ở London," ông Schnetzer cho biết. "Dầu được vận chuyển đến châu Âu, Nam Mỹ và Quần đảo Tây Ấn, thậm chí nó còn giúp khởi động Cuộc Cách mạng Công nghiệp của Mỹ. Ngày nay chúng ta bước lên xe và chạy đi khắp nơi. Hệ thống giúp làm được điều này được sáng tạo ra ở Đường Water. Gạt nhẹ công tắc đèn trong phòng cũng vậy. Tất cả đều bắt đầu ở đây."
Ngày nay, New Bedford vẫn sống dựa vào cảng nước sâu chảy vào Vịnh Buzzards. Nhờ vào việc khai thác sò điệp, nơi đây là cảng cá có trị giá hàng hóa cao nhất nước Mỹ với lượng hải sản cập bờ hàng năm lên đến 65 triệu kg.
Nhưng nếu tìm hiểu sâu hơn thì câu chuyện về khai thác cá voi vẫn hiện rõ mồn một trên những con phố. Công ty nấu bia Moby-Dick nằm ở góc phố Union, Quán rượu Thợ săn Cá voi giả cổ nằm kế bên. Chạy song song trên Đồi Johnny Cake là Nhà Thủy thủ bằng ván gỗ (mãi đến năm 2006 nơi này chỉ ngưng làm chỗ cư trú cho các ngư dân), và kế bên đó là Nhà thờ Người đi biển mà ngày nay vẫn tổ chức những buổi tưởng niệm những người đã bỏ mình trên biển cả.

Tiểu thuyết Moby Dick

Để tránh mưa, Fred Toomey, chủ tịch của Hội Cảng New Bedford, dắt tôi vào bên trong nhà thờ và chỉ cho tôi thấy một loạt những bảng tưởng niệm bằng đá cẩm thạch được đính lên tường.


Mike MacEacheranBản quyền hình ảnhMIKE MACEACHERAN
Image captionNhững dấu ấn về một thời săn cá voi của New Bedford vẫn hiện diện rộng khắ trên các con đường trong thành phố

Được viền đen, chúng truyền đạt những thông điệp hy vọng, tuyệt vọng và số phận của những người thợ săn cá voi đã mất tích trên biển. Ông đọc lớn nội dung một tấm bảng một cách thiểu não. Giọng của ông vang vọng khắp giáo đường.
"Tưởng nhớ Thuyền trưởng Wm Swain, thuyền trưởng của tàu Christopher Mitchell ở Nantucket," Toomey đọc. "Người đàn ông đáng kính này sau khi buộc dây vào một con cá voi đã bị dây kéo từ trên tàu xuống biển và đã chết đuối vào ngày 19/5 năm 1844…"
Những học giả nghiên cứu về tiểu thuyết Moby Dick của văn hào Herman Melville có thể nhận ra được chân dung của nhân vật được miêu tả này. Nhất là khi nó là cảm hứng đưa tới nhân vật thuyền trưởng Ahab cố chấp, người thủy thủ mắc chứng độc tưởng ở trung tâm của tác phẩm văn học kinh điển của Melville được xuất bản vào năm 1851.
Ngồi vào dãy ghế phía sau giáo đường bạn sẽ thấy một tấm bảng được vẽ bằng phấn nguệch ngoạc để tưởng niệm văn hào này, người đã đến thăm nhà thờ trước khi lên tàu săn cá voi Acushnet vào tháng Giêng năm 1841.
Tuy nhiên, hành trình của New Bedford đã bắt đầu rất lâu trước khi tiểu thuyết Moby Dick ra đời, lui lại một vài thế kỷ đến năm 1765 khi mà Joseph Rotch, một thương gia nổi bật ở Nantucket cùng với hai người con trai của ông đã chuyển gia tài đồ sộ của mình đến bờ sông Acushnet do bị lôi cuốn bởi tài nguyên và nhân công ở đây. Đó là một động thái đã làm thay đổi dòng chảy lịch sử nước Mỹ mãi mãi.

Phát triển phồn thịnh

Nhà Rotch đã tạo nên một cuộc cách mạng trong ngành khai thác cá voi. Chỉ trong phạm vi một công ty, họ đã kết hợp tất cả các giai đoạn sản xuất lại với nhau - từ khai thác cá voi, lấy dầu và tinh lọc dầu cho đến phân phối - tất cả đều sử dụng tàu thuyền của họ.


Mike MacEacheranBản quyền hình ảnhMIKE MACEACHERAN
Image captionNhững tấm bảng bằng đá trên tường Hội cảng của New Bedford's tưởng niệm các thủy thủ bỏ mạng nơi biển khơi

Họ đóng và tân trang lại những con tàu, sở hữu các cầu tàu và các nhà kho chứa, làm nến và bán dầu cá. Trên thực tế, họ đã tạo ra công ty dầu đa quốc gia đầu tiên trên thế giới - một cách làm mà cách tập đoàn năng lượng ngày nay vẫn còn áp dụng.
Còn trong sách vở, các cột mốc thời gian sự phát triển của ngành dầu cá cũng đầy ắp các sự kiện như thế. Chiếc tàu săn cá voi đầu tiên của New Bedford, tàu Dartmouth, được đóng vào năm 1767, nhưng cho đến năm 1818 số lượng tàu săn cá voi ở đây đã vọt lên đến 20 và cho đến năm 1828 đã tăng hơn bốn lần.
Tính đến năm 1857, đội tàu ở đây đã đạt đỉnh là 324 chiếc với lợi tức hàng năm là hơn 11 triệu đô la. Cùng năm đó, thị trấn đã có hiến chương với câu khẩu hiệu bằng tiếng Latin 'Lucem Diffundo' có nghĩa là 'Chúng tôi thắp sáng thế giới'.
Song song đó, phía bờ biển của New Bedford đã phát triển thành một hải cảng thương mại sầm uất.
Sự phồn vinh từ các bến tàu lan tới các ngân hàng, trong khi đường sá dọc ngang trở nên đông đúc với những dinh thự trang hoàng lộng lẫy và những dãy nhà quý tộc xây dựng trên sườn đồi.
Một trong những dinh thự đó, Dinh thự Rotch-Jones-Duff màu vàng, đã được biến thành viện bảo tàng. Nó là một sự pha trộn của kiến trúc phục hưng Hy Lạp với những ban công có hàng cột lan can và những khu vườn được đắp cao. Thậm chí nó có cả đài quan sát bằng kính để chủ nhân dinh thự có thể quan sát những con tàu đang đến gần mà không phải ngửi không khí hôi thối.


Mike MacEacheranBản quyền hình ảnhMIKE MACEACHERAN

Suy tàn nhanh chóng

Để tìm hiểu sâu hơn vào di sản này, tôi đã gặp sử gia Clifton Rice tại Bảo tàng Săn cá voi New Bedford đã có lịch sử cả trăm năm. Nơi đây có kho tư liệu khổng lồ tường thuật lại lịch sử của thị trấn một cách rất tỉ mỉ.
Trưng bày những thứ kỳ lạ như bộ sưu tập khắc xương lớn nhất thế giới - những đồ vật được làm cá nhà táng, hải ly, sừng hàm và xương sườn - cùng với 750.000 hiện vật từ sổ ghi chép và tranh sơn dầu cho đến bản thảo viết tay và nhật ký săn cá voi, bảo tàng này là kho tàng các hiện vật.
Trong một gian trưng bày, bạn có thể chiêm nghiệm trước chiếc sừng hàm dùng để nâng một tượng bán thân hay nghiên cứu một chiếc xe trượt tuyết cho trẻ em làm từ xương cá.
Ở một gian trưng bày khác, người ta trưng bày những chu kỳ phồn vinh mà khi đó những tàu săn cá voi đi săn đến tận vùng Viễn Đông. "Theo cách đó, săn cá voi đã mở đường cho toàn cầu hóa," Rice nói, "ngay cả trước khi thế giới biết đến khái niệm này."
Nhưng cũng nhanh như khi nó vươn lên, ngành công nghiệp này suy sụp thậm chí còn nhanh hơn nữa.
Cho đến giữa thế kỷ 19, một số nhân tố đã làm giảm nhu cầu dầu cá. Mỏ dầu trong lòng đất được tìm thấy ở bang Pennsylvania. Cơn sốt đi tìm vàng từ California lan đến. Phí bảo hiểm cho tàu thuyền tăng vọt. Dầu hỏa xuất hiện như một nhiên liệu thay thế rẻ tiền. Nội chiến Mỹ bùng nổ. Và rồi cú hạ gục cuối cùng xảy ra vào năm 1879 khi Thomas Edison phát minh ra bóng đèn điện.
"Chúng tôi không muốn mọi người lãng quên lịch sử này," Rice nói. "Chúng ta có thể học được bài học từ đó. Hy vọng về sự phục hồi tiếp tục của đàn cá voi nằm ở giao tiếp của chúng ta với tự nhiên và khả năng chúng ta cảm nhận về sự choáng ngợp và kỳ vĩ của chúng."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét