Hà Nội
sắp vào thu, một mùa “vu lan báo hiếu” sắp đến. Tôi lại nhớ tới những ngày này
của 15 năm trước
Sau
Tết Nhâm Ngọ (2002), Cha tôi – Trần Độ trở bệnh nặng. Cha tôi lại vào bệnh viện
Hữu Nghị với chẩn đoán ung thư bàng quang. Nằm ít lâu, sức khoẻ ông xuống rõ do
suy hô hấp, tháng 5/2002 ông phải đưa ống xông vào để thở và nằm ở phòng cấp cứu.
Mặc dù nằm một chỗ, không nói được, đi tiểu qua ống dẫn nhưng ông vẫn tỉnh táo.
Ông rất vui khi có người thân, bạn bè tới thăm. Không nói được nhưng ông ra hiệu
hoặc bút đàm với mọi người. Giữa tháng 7/2002, ông ra hiệu cho tôi về lấy di
chúc của ông ra đọc và thực hiện các việc ông dặn. Trong di chúc ông viết: xin
được hoả thiêu và hài cốt đưa về nằm bên mẹ ở nghĩa trang làng Thư Điền, xã Tây
Giang, huyện Tiền Hải.
Vào
14g 10p ngày 9/8/2002 (tức 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ) Cha tôi trút hơi thở cuối
cùng tại phòng cấp cứu, bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Ngày
hôm sau, Văn phòng Quốc hội họp với gia đình bàn về lễ tang cho ông. Các vấn đề
lễ tang, hoả táng, đưa hài cốt về quê… được thống nhất. Lời điếu của Ban tổ chức
lễ tang, và lời cảm ơn của gia đình sẽ được soạn trước và đưa hai bên thống nhất.
Gia đình đề nghị có 4, 5 quyển sổ tang để mọi người chia buồn, Văn phòng Quốc hội
đồng ý. Đám tang được lùi lại 5 ngày vì… Quốc hội đang họp.
Ngày
11/8, anh Hùng phó Ban lễ tang mang tới nhà cho tôi xem lời điếu. Trong đó có một
đoạn khoảng chục dòng tôi yêu cầu bỏ vì nó “không thích hợp” và trái đạo lý
“nghĩa tử nghĩa tận” của ông bà ta. Tối đó anh Hùng đưa tôi bản sửa, chỉ còn lại
hơn một dòng “không thích hợp” và tôi cương quyết đòi bỏ. Anh Hùng nói: Bộ
Chính Trị, Ban Bí Thư cho ý kiến là không bỏ, nhưng tại lễ tang sẽ đọc rất nhỏ
hoặc tạm tắt tăng âm… Tôi nói: Tuỳ các ông, nhưng nếu xảy ra chuyện gì gia đình
không chịu trách nhiệm. Còn lời cám ơn của gia đình tôi đã soạn và đánh máy.
Anh Hùng xem và không có ý kiến gì.
Sáng
14/8/2002, gia đình, họ hàng, thân bằng quyến thuộc của Cha tôi đã có mặt rất sớm
ở nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông.
Cảm
nhận đầu tiên là vấn đề an ninh: không hiểu sao công an, bộ đội, người đứng chỉ
trỏ… rất đông. Cảm nhận tiếp theo là: không khí rất căng thẳng như có gì đó chống
đối nhau. Cảm nhận nữa là: tại sao việc kiểm soát vòng hoa tang, băng tang, các
bức trướng… lại nghiêm ngặt đến vậy? Nhiều vòng hoa phải thay băng tang hoặc sửa
câu chữ, nhiều bức trướng bị thu giữ…Tôi và mọi người tang phục chỉnh tề bước
vào nhà tang lễ. Đập thẳng vào mắt tôi là dòng chữ “Lễ tang ông Trần Độ” trên một
tấm bảng lớn phủ kín dòng chữ “Vô cùng thương tiếc…” lâu nay vẫn gắn trên tường.
Đi tới bàn ghi sổ tang tôi thấy trên 5 bàn có 5 tập giấy trắng khổ A4. Tôi hỏi
cán bộ Ban lễ tang: Sổ tang đâu? Anh ta nói: Sau đám tang sẽ đóng thành sổ. Tôi
nói: Đã thống nhất sổ tang là sổ tang, ban tổ chức không có gia đình sẽ đưa tới.
Một lúc sau, 5 quyển sổ tang đã đóng được đưa vào thay cho 5 tập giấy rời.
Đám
tang được cử hành, các đoàn, các nhóm, các cá nhân lần lượt vào viếng. Băng
tang hầu hết không có chữ “vô cùng thương tiếc” hoặc “Trung tướng Trần Độ”.
Xen
kẽ là các bức trướng:
-
“Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn”;
-
“Công thần không làm phách
Danh
toại chẳng cầu nhàn
Bút
thần vung mấy độ
Ðáng
mặt đại nghĩa quân”
-
“Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng
dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân”.
-
“Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu
độ phương vi đại trượng phu”…
Theo
sau là các cụ già, các cựu chiến binh, các nhân sĩ… Họ mang trướng theo hoặc giấu
trong người. Khi tới gần quan tài họ giương lên hoặc phủ lên áo quan. Cả phòng
tang lễ im phăng phắc, không khí căng thẳng dần.
Khi
các cụ đi khỏi, có vị nói với mấy cậu lính gì đó. Hai cậu lính chạy lên, thu mấy
bức trướng, cuộn lại và ném vào góc phòng. Tôi gằn giọng: các cháu đâu? Lập tức
cháu Đan, cháu Tuấn… lao lên góc phòng, mang tất cả các bức trướng sắp xếp lại
như cũ. Không một tiếng động nào, không một hành động nào xảy ra trong lúc đó,
nhưng ngột ngạt đến tức thở.
Các
đoàn viếng đã gần xong. Bỗng anh Nghiêm Hà đến bên tôi nói: Ban tổ chức định
thu giữ mấy quyển sổ tang, anh ra xem sao? Tôi đi đến thì thấy một anh đang gom
giữ mấy quyển sổ tang. Tôi nói: anh để tôi xem. Mở một quyển tôi thấy có những
trang bị xé nham nhở. Tôi hiểu ngay họ muốn gì. Tôi lấy lại 5 quyển sổ tang và
chợt nhìn thấy em Lãng (chồng em Hạnh), một Bác sĩ quân y đã qua các chiến trường.
Tôi nói lớn: Lãng! Em giữ 5 quyển sổ này không cho ai lấy. Em có làm được
không? Lãng cũng nói lớn như đang nhận lệnh: Rõ, em làm được.
Tôi
vội về vị trí để làm lễ truy điệu. Ông Vũ Mão đọc lời điếu. Ông đọc to, rõ toàn
văn lời điếu kể cả câu mà theo anh Hùng nói hôm trước là sẽ đọc nhỏ nhất có thể.
Hội
trường im lặng, có tiếng ho, tiếng khóc ấm ức cứ lớn dần.
Tôi
lên đọc lời cảm ơn. Tôi đọc bản soạn sẵn đã đưa Ban lễ tang duyệt. Gần về cuối,
hình ảnh tập giấy A4 thay sổ tang, hình ảnh người lính ném mấy bức trướng vào
góc phòng, hình ảnh đòi thu giữ sổ tang và nhiều chi tiết đau lòng khác làm tôi
nghẹn giọng. Vẫn cầm tờ giấy như đang đọc nội dung có sẵn, tôi nói to, chậm,
rõ: “…gia đình và dòng họ chúng tôi không chấp nhận bài điếu văn này…”.
Lập
tức tiếng tôi chìm trong tiếng vỗ tay, tiếng hô vang của mọi người dự tang lễ.
Lúc đó tôi không cảm nhận hết không khí của buổi lễ, tôi cố gắng làm tròn bổn
phận của mình, nhưng trong tôi mọi thứ như vỡ vụn. Thật không ngờ tôi phải tham
gia một đám tang… rất buồn như vậy.
Hà Nội,
tháng 8/2017
T.T.
Nguồn:
FB Vũ Thư Hiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét