(Gửi Nhóm Bạn Cửu Long)
Sơ đồ Canal de Prêk Yuan, tên Khmer của con kênh Vĩnh Tế, với
ghi chú tiếng Pháp: Canal de Prêk Yuan ou Canal de Vinh Te Reliant la Rivière
de Chau Đoc à Hà Tien, trang 394 sách đã dẫn [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Mọi lý thuyết đều màu xám duy cây đời vẫn mãi xanh tươi.
Johann Wolfgang von Goethe / Faust 1808 'Studierzimmer'
DRAGON VÀ ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Chúng tôi cùng hẹn gặp nhau ở Cần Thơ đầu tháng 12. Thực ra
chúng tôi đã biết nhau từ trước do “văn kỳ thanh” qua những trăn trở
chung về hệ sinh thái sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Từ trái, TS Lê Phát Quới, Th.S Nguyễn Hữu Thiện, KS Phạm
Phan Long, TS Lê Anh Tuấn, Ngô Thế Vinh, TS Dương Văn Ni, BS Nguyễn Văn Hưng.
Trên khối đá, ghi khắc thời điểm 31.03.1966 là ngày tướng Nguyễn Cao Kỳ ký nghị
định chính thức thành lập Viện Đại Học Cần Thơ, với GS Phạm Hoàng Hộ là Viện
trưởng Sáng lập đầu tiên. [photo by Sang]
Đoàn hôm nay gồm 7 người. Buổi sáng, dự tính khởi hành sớm
nhưng theo yêu cầu của người viết, muốn được trở lại thăm Đại học Cần Thơ, nay
với thêm DRAGON - Mekong Institute là Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu mà TS Lê
Anh Tuấn trong đoàn hiện là Phó Viện trưởng. Có thể nói Đại học Cần Thơ có một
thư viện / Trung tâm Học liệu khang trang và đẹp nhất theo tiêu chuẩn thư viện
Mỹ. Trên lầu 3 của Thư viện là Phòng Truyền thống, với đôi nét lịch sử Đại học
Cần Thơ, cả với hình ảnh các Viện Trưởng [sau 75 gọi là Hiệu Trưởng] từ ngày
thành lập tới nay.
Điều mới mẻ với tôi, kể từ chuyến viếng thăm trước là Đại học
Cần Thơ có thêm Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu / DRAGON - Mekong Institute.
[DRAGON: Delta Research and Global Observation Network]. Viện
được chính thức thành lập ngày 20.11.2009. Trong buổi lễ khai mạc, GS Nguyễn
Anh Tuấn Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ lúc đó và Đại sứ Hoa Kỳ Micheal W.
Michalak đã ký một Thỏa ước thiết lập quan hệ hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm
lâu dài giữa hai châu thổ sông Mekong và sông Mississippi, trong đó nhấn mạnh
các nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu với những biện pháp giảm thiểu
và cả thích nghi. Cùng ngày là lễ khánh thành trụ sở Viện Nghiên cứu Biến đổi
Khí hậu trong khuôn viên Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, Đại học Cần
Thơ. Có thể nói đây là bước mau chóng triển khai "Sáng kiến Hạ lưu Sông
Mekong / Lower Mekong Initiative / LMI" của Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton trước đó 5 tháng với khởi đầu là bước kết nghĩa giữa hai Uỷ Hội Sông
Mekong / MRC và Uỷ Hội Sông Mississippi (07.23.2009). [3]
Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Đại học Cần Thơ, là đơn vị
nghiên cứu khoa học đa ngành nhằm phục vụ cho việc đánh giá tác động của biến đổi
khí hậu đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, sản xuất nông lâm ngư nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ; xây dựng chiến lược và kế hoạch thích ứng và giảm nhẹ
tác động của biến đổi khí hậu cho các địa phương vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Viện cũng phối hợp đào tạo, nghiên cứu khoa học và chia sẻ kinh nghiệm giữa các
viện, trường trong và ngoài nước, đặc biệt là giữa trường Đại học Cần Thơ với
các địa phương ở ĐBSCL trong nỗ lực thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi
khí hậu. Website: https://dragon.ctu.edu.vn
MỘT THOÁNG CHÂU ĐỐC
Lộ trình từ Cần Thơ tới Châu Đốc đường khá tốt đi khoảng 5
tiếng. Xe chạy men theo bờ Sông Hậu, ngang thị xã Long Xuyên nơi có Đại học An
Giang, anh Võ Tòng Xuân Hiệu trưởng sáng lập đầu tiên thì đã về hưu, nay anh được
mời về làm Hiệu trưởng một Đại học tư Nam Cần Thơ, anh Xuân còn có biệt hiệu là
"Hai Lúa" dù đã bước qua tuổi cổ lai hy nhưng anh vẫn nhiều lần bay
xa tới tận Châu Phi, giúp Sierra Leone đưa kỹ thuật "văn minh lúa nước"
từ ĐBSCL sang Phi Châu với tham vọng giúp lục địa này phát triển lương thực bền
vững và vượt qua cơn thiếu đói.
Mỗi lần trở lại với con sông Mekong và ĐBSCL với tôi như một
tiếng gọi quyến rũ, như một cuộc trở về, để tìm tới những vùng đất đai, những
khúc đoạn khác của con sông Mekong, do những bước phát triển không bền vững /
unsustainable developments khiến toàn thể hệ sinh thái không ngừng bị tổn
thương suy thoái và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Rồi ra thế
hệ sắp tới có thể không còn cơ hội để thấy được sinh cảnh phong phú nhưng quá
mong manh của dòng sông và sẽ trở thành “Con Sông của Quá Khứ.” Và những ai xa
quê thì cũng vẫn mong được trở về với mái nhà xưa tìm lại cánh đồng xanh mùa
màng ngày cũ.
Dọc đường có thể quan sát một số điểm sạt lở bờ Sông Hậu.
Ghé qua Ô Long Vĩ để xem đê lúa cao sản ba vụ. Đoàn tới Châu Đốc vào buổi xế
trưa,
Châu Đốc trước kia là tên một tỉnh, nay là tên một thành phố
thuộc tỉnh An Giang sát biên giới Việt Miên. [tỉnh lỵ của An Giang nay là thành
phố Long Xuyên]. Cư dân Châu Đốc khoảng hơn 150 ngàn dân, với các sắc tộc Kinh,
Chăm, Hoa và Khmer, bao gồm nhiều tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hoà
Hảo, Tin Lành, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, và đạo Hồi Islam với cộng đồng người Chăm
Châu Giang; cư dân chủ yếu sống dọc theo bờ Sông Hậu, ven Quốc lộ 91.
Có khoảng 900 ngàn người Khmer sống nơi Đồng Bằng Sông Cửu
Long. Họ theo đạo Phật Tiểu Thừa sống đông nhất ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và
Châu Đốc nay là tỉnh An Giang. Nhà cửa của người Khmer vẫn đơn sơ nhưng nổi bật
là các ngôi chùa tháp vàng uy nghi. Không xa chùa có tháp đựng tro cốt người chết
sau khi được hỏa thiêu; người Khmer không có nghĩa trang.
Qua công viên Ngã ba Sông Châu Đốc, nổi bật một Tượng đài cá
Ba Sa cao 14 mét, chỉ riêng phần tượng cá đã nặng tới 3 tấn màu sáng bạc chói
chang trong nắng, như một biểu tượng tôn vinh nông ngư dân ĐBSCL đã thuần dưỡng
thành công trong các làng bè một giống cá ngon có chất lượng thay thế cho nguồn
cá sông thiên nhiên ngày một cạn kiệt. Ba Sa có tên khoa học là Pangasius
bocourti, là loài cá da trơn được nuôi nhiều ở ĐBSCL và cả lưu vực Sông Chao
Phraya Thái Lan.
Cá Ba Sa chiếm hơn nửa sản lượng cá nuôi hàng năm nơi ĐBSCL.
Hàng ngàn làng bè đầu nguồn sông Hậu nơi các tỉnh An Giang (Châu Đốc), Đồng
Tháp (Hồng Ngự) không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng.
Không những thế, phi-lê cá Ba Sa nay đã trở thành một thương hiệu / brand name
được ưa chuộng ở nhiều thị trường trên thế giới.
Từ chân tượng đài, nhìn sang bên kia sông là một cồn lớn,
như một tháp ghép lịch sử / historic transplant, đang có khoảng 12 ngàn người
Chăm sinh sống trên đó, dân địa phương quen gọi họ là Chà Châu Giang, do nước
da sậm và họ theo đạo Hồi.
Khi Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi tới Châu Đốc, thì Thoại Ngọc
Hầu được giao trọng trách đào con kênh Vĩnh Tế, và một số người Chăm được điều
động tới đây. Họ rất đắc lực trong vai trò đôn đốc tám chục ngàn sưu dân người
Việt, người Khmer rất gian khổ ngày đêm đào con kinh Vĩnh Tế trong suốt 5 năm với
rất nhiều tổn hại nhân mạng. Sau khi kênh Vĩnh Tế hoàn tất, triều đình Huế xem
đây như thành quả to tát và để thưởng công cho đám người Chăm này, vua Minh Mạng
đã chiêu dụ cấp đất cho họ lập thành 7 làng, sau này có thêm làng Đa Phước. Đến
nay họ sống khá cách biệt chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa nên còn có
tên là Cồn Tơ Lụa / Koh Kaboăk và họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa Champa. Tôi
có người bạn vong niên từ hồi báo Bách Khoa trước 1975, anh Dohamide sinh ra và
lớn lên nơi đây; anh là cây bút lâu năm uy tín viết chuyên khảo về lịch sử văn
hoá Chăm. Có giai thoại cho rằng tên Việt Nam Đỗ Hải Minh của anh là do ông Ngô
Đình Nhu đặt cho. Anh Dohamide thì hiện đang sống ở Mỹ.
Nhìn lên bầu trời xanh rồi như một flashback, tôi không sao
quên được cảm xúc buổi chiều ngày hôm đó khi khi bước xuống ghe giã từ Đa Phước,
ngôi làng lịch sử còn đầy ắp những hoài niệm của quá khứ. [1]
BÀ NGOẠI VỚI CHIẾC IPAD
Rời Châu Đốc xe rời quốc lộ chạy vào những con đường làng nhỏ
tráng nhựa thô sơ, quá hẹp cho xe hơi chạy hai chiều, đường chủ yếu cho xe gắn
máy và xe đạp. Xe dừng ở xã Vĩnh Châu. Ấn tượng nhất là hình ảnh bà Ngoại ngồi
chồm hổm với chiếc iPad nói chuyện với đứa cháu ngoại mãi tận bên Hàn quốc, bà
có một đứa con gái lấy chồng Hàn, nó vẫn gửi tiền về cho mẹ và cả chiếc iPad để
cho Ngoại nói chuyện với cháu cho đỡ nhớ. Và đây có thể là trường hợp may mắn của
một cô gái Cửu Long lấy chồng xa, có đời sống vật chất đủ để có thể bảo bọc cho
gia đình, quán xuyến lo cho mẹ và các em nơi quê nhà.
Không còn hình ảnh cũ ước lệ nhưng thân thương, bà Ngoại nằm
đưa võng ôm cháu mà ru mấy tiếng à ơi. Hay câu ca dao rất quen thuộc mà tưởng
như đã rất xa:
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Nay thì không ít cô gái Cửu Long, không còn kiên nhẫn chờ
ngày được má gả chồng, chính các cô đã tự tìm đường bươn trải, tự kiếm cho mình
một tấm chồng thường ở một xứ sở xa lắc xa lơ, như Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung
Quốc... nhưng rồi với iPhone iPad thì các cô biết rất rõ má mình đang ở đâu và
cả bao xa. Nhưng rồi, trong số đó cũng phải kể tới không thiếu những cô gái Việt
bất hạnh gặp nghịch cảnh, sống trong tăm tối tuyệt vọng và cũng không sao tìm
được một con đường về.
Bà Ngoại ngồi chồm hổm với chiếc iPad nói chuyện với đứa
cháu ngoại mãi tận bên Hàn quốc, bà có một đứa con gái lấy chồng Đại Hàn, nó vẫn
gửi tiền về cho mẹ và cả chiếc iPad để cho Ngoại nói chuyện với cháu cho đỡ nhớ.
[photo by Ngô Thế Vinh]
Hỏi Ngoại thêm về nước dùng thì 100% là từ nước giếng bơm.
Đây cũng là mối ưu tư của TS Dương Văn Ni từ Đại Học Cần Thơ: sông nước thì
lênh láng mà vẫn thiếu nước dùng, và tầng nước ngầm thì không phải là vô hạn và
ngày càng suy xụp. Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia vùng đất ngập / wetlands
đã hơn một lần đưa ra những con số báo động: "Nông thôn vùng sông nước Cửu
Long bây giờ toàn xài nước ngầm; có khoảng 1 triệu giếng khoan mỗi ngày rút lên
2 triệu mét khối nước ngầm, dùng cho sinh hoạt đủ thứ, vậy nên ĐBSCL đang bị sụt
lún nhanh gấp 10 lần nước biển dâng." Nhà nước hay Bộ Tài nguyên & Môi
trường, ai sẽ đưa ra câu trả lời rốt ráo cho "vấn nạn nước" trong thập
niên tới.
Quan tâm của anh Dương Văn Ni là làm sao bảo vệ nguồn nước mặt
khỏi ô nhiễm và của anh Phạm Phan Long làm sao gia tăng dự trữ tầng nước ngầm,
là mối ưu tư nặng trĩu trong lòng chúng tôi trong suốt cả chuyến đi.
Quanh năm làm lúa 3 vụ nhưng vẫn theo phong cách lao động
tay chân; từ trên xuống: phơi lúa trên sân đất; hạt lúa dài cao sản; vẫn oằn
vai vác các bao lúa về kho. [photo by Ngô Thế Vinh]
ĐẾN VỚI HAI CON ĐẬP TRÀN HUYỆN TỊNH BIÊN
Ra lại Quốc lộ 91, theo con kênh Vĩnh Tế tới huyện Tân Biên.
Đoàn dừng chân nơi có hai con đập tràn Tha La và đập tràn Trà Sư.
TS Dương Văn Ni bước xuống chân con đập Trà Sư, bắt đầu giải
thích: "Hai con đập Trà Sư và Tha La là loại đập tràn / spillway rubber
dam, lúc thiết kế dự tính là chiều cao mực nước lúc cho tràn sẽ thay đổi tùy
theo tình hình lũ thượng nguồn, nên họ sử dụng "phao khí", tức là nếu
cho nước tràn sớm thì bơm ít khí, nếu cho nước tràn trễ thì bơm nhiều ống khí sẽ
căng lên. Nhưng từ khi thiết kế kỹ thuật phao khí đến nay, bắt đầu từ năm 2000
thì chỉ có xả đập hay đóng đập, chứ không cho đập tràn như dự kiến. Đây cũng là
câu hỏi kỹ thuật đặt ra cho việc vận hành các đập tràn? Có lẽ vì đập nầy chỉ vận
hành đóng/mở (xả) trong thời gian qua và hiện nay phao khí cao su đã bị lão
hóa, nên họ cho sửa lại như mình thấy."
Anh Dương Văn Ni tiếp: "Không phải chỉ các đập tràn, mà
toàn bộ hệ thống đê / lộ chạy dọc theo biên giới Việt Nam - Cambodia đã làm giảm
lượng nước vào Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, nhằm làm tăng diện tích
canh tác lúa cao sản 3 vụ bên phía Việt Nam nhưng đồng thời lại gây ngập cho
phía Cambodia khiến nước bạn đã nhiều lần than phiền."
TS Lê Phát Quới đứng bên con kênh Vĩnh Tế, với bên kia biên
giới nước thì dâng lênh láng thấm đẫm phù sa và cá, là hình ảnh của sự sống và
thiên nhiên tươi mát. [photo by Ngô Thế Vinh]
XẢ LŨ HAI ĐẬP TRÀN THA LA VÀ TRÀ SƯ
Hai con đập tràn Tha La và Trà Sư được xây cất và bắt đầu
đưa vào vận hành từ tháng 5 năm 2000 với vai trò điều tiết lũ từ Cambodia thượng
nguồn đổ ra Biển Tây, vịnh Thái Lan. Xây đập tràn với mục đích ngăn lũ đổ về
phía nam Quốc lộ 91 dọc theo con kênh Vĩnh Tế, nhằm bảo đảm Kế hoạch An ninh
Lương thực, sản xuất lúa cao sản 3 vụ cho vùng trũng Tứ Giác Long Xuyên gồm các
tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ.
Theo số liệu của Công ty Thuỷ lợi An Giang thì tại đập tràn
Tha La mực nước thượng lưu bên Cambodia là 2.95m và hạ lưu là 2.05m với mức
chênh lệch là 0.9m; còn tại con đập tràn Trà Sư mực nước thượng lưu bên
Cambodia là 2.94m và hạ lưu là 2.15m với mức chênh lệch là 0.8m.
Việc xả lũ 2 con đập tràn Tha La và Trà Sư được vận hành
linh hoạt theo tình huống lũ từ thượng nguồn, kết hợp với nhu cầu nước của vùng
dưới nhằm đảm bảo an toàn sản xuất lúa ba vụ, nhất là vụ lúa thu đông. Việc xả
lũ có lợi ích tháo chua rửa phèn cho đất, làm sạch ô nhiễm cho vùng Tứ Giác
Long Xuyên và phụ cận. Việc xả lũ còn có thêm lợi ích là mang phù sa như một thứ
phân bón thiên nhiên màu mỡ cho hơn 20,000 hecta đất trồng trọt. Do đó mà sự kiện
xả lũ được bà con nông dân coi như là một ngày vui, và có đông đảo bà con An
Giang háo hức tụ về xem hai con đập tràn xả lũ như đi trẩy hội.
Theo báo Tuổi Trẻ ghi nhận thì 2 năm trở đây đã có 2 đợt xả
lũ: (1) Sáng ngày 22.10.2016, hai con đập tràn Tha La và Trà Sư đã được xả lũ.
(2) Sáng ngày 22.09.2017, sớm hơn một tháng hai con đập tràn Tha La và Trà Sư
đã được xả lũ nhằm đối phó với mưa lũ lên nhanh phía Cambodia thượng lưu so với
cùng kỳ năm ngoái.
Người nông dân cho rằng kế hoạch xả lũ sớm hơn sẽ có lợi hơn
nhiều: lũ vào làm vệ sinh cho đồng ruộng, rửa phèn tháo chua cho đất và nhất là
đem tới phù sa đã khiến năng suất mùa lúa tới "trúng hơn". Dòng lũ xả
chảy cuồn cuộn còn kéo theo cả tôm cá, phải nói là người dân mừng rỡ là thế
nào. Có cả nông dân đem vó ra đón lũ và lưới cá, một người đánh bắt được 5-6 kg
cá tươi trong ngày dư dả cho bữa ăn giàu chất protein cho cả mấy gia đình.
Nhưng cũng để thấy rằng chính các đê bao chống lũ để làm lúa
3 vụ, đồng thời cũng làm mất đi 2 túi nước thiên nhiên quan trọng là khu Tứ
Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười rất cần thiết để cung ứng nước cho
cả vùng châu thổ trong mùa khô.
VĨNH TẾ, CON KÊNH LỊCH SỬ
Khi nói về lịch sử con kênh Vĩnh Tế, anh Dương Văn Ni thêm một
nét chấm phá pha chút hài hước: "Vĩnh Tế là tên bà vợ Thoại Ngọc Hầu, vậy
mà cũng có người giải thích kênh Vĩnh Tế là con kênh chiến lược về kinh tế..."
Thoại Ngọc Hầu, tục danh Nguyễn Văn Thoại, người gốc Điện Bàn
Quảng Nam, theo phò chúa Nguyễn Ánh rất sớm và được trọng dụng. Năm 1818, ông
được bổ làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, tại đây ông có công điều động dân binh đào con
kênh Đông Xuyên, vì những lợi ích kinh tế to lớn, nên kênh ấy được nhà vua cho
đặt tên ông là Thoại Hà, ngọn núi Khâu Sơn gần đó cũng có tên là Thoại Sơn.
Năm 1819, Thoại Ngọc Hầu lại được lệnh vua Gia Long đào thêm
một con kênh lớn hơn nhiều chạy thẳng từ Châu Đốc, tỉnh An Giang xuống đến Kiên
Lương tỉnh Kiên Giang nhập vào sông Giang Thành tới cửa Hà Tiên đổ ra Biển Tây
tức vịnh Thái Lan.
Trong suốt thời gian đào kênh, Thoại Ngọc Hầu đã được bà vợ
là Châu Thị Vĩnh Tế người Vĩnh Long hết lòng cùng chồng đốc suất dân binh làm
việc ngày đêm, kéo dài suốt 5 năm cho tới ngày con kênh hoàn tất 1824. Vua Minh
Mạng cảm phục công sức khó nhọc của bà nên đã lấy tên bà đặt cho con kênh chiến
lược này là kênh Vĩnh Tế, và ngọn núi Sam gần đó là Vĩnh Tế Sơn. Không những thế,
hình kênh Vĩnh Tế còn được vua Minh Mạng cho khắc trên chiếc Cao Đỉnh với dòng
chữ Vĩnh Tế hà / 永濟河. Cao Đỉnh là chiếc đỉnh đầu tiên trong Cửu Đỉnh để thờ
Thế Tổ Cao Hoàng đế tức vua Gia Long.
Kênh Vĩnh Tế chảy song song với đường biên giới Việt Miên,
dài ngót 90 km, rộng 30 m, độ sâu trung bình 2.5 m; không chỉ là một công trình
thuỷ lợi có giá trị kinh tế to lớn nhưng quan trọng hơn thế nữa còn là một con
hào chiến lược có giá trị quốc phòng bảo vệ vùng đất dọc biên giới.
Đến với con Kênh Vĩnh Tế cũng là đến với một chặng đường lịch
sử trải dài ngót 200 năm với nhiều máu, mồ hôi và nước mắt.
LỊCH SỬ KHMER MỘT CÁI NHÌN KHÁC
Với người Khmer, lịch sử ngót 200 năm của con kênh Vĩnh Tế
là một cơn ác mộng. Vẫn lưu truyền trong dân gian Khmer, qua các câu chuyện kể,
và cả bằng sách vở nữa của các vị sư sãi Miên là đã có hàng chục ngàn sưu dân
Khmer bị Bảo Hộ Thoại Ngọc Hầu bắt làm khổ sai đào con kênh Vĩnh Tế từ Châu Đốc
ra tới Hà Tiên mà người Khmer gọi là Canal de Prêk Yuan với bao nhiêu lầm than
và chết chóc, rồi cả đến câu chuyện quái đản cùa người Pháp về "Vị Quan
Triều Nguyễn Trương Minh Giảng chôn sống ba người Khmer ngập tới cổ rồi dùng đầu
họ làm kiềng ba chân đặt nồi nấu cơm." Thật và không thật, các câu chuyện ấy
vẫn được những người Khmer chống Việt Nam rêu rao như một bằng chứng hành hạ độc
ác của người Việt mà họ miệt thị gọi là bọn Yuon.
Gia Tài Thù Hận Việt Khmer. Ngay cả sang cuối thế kỷ XX vẫn
dấy lên những phong trào người Khmer bài Việt. Bấy lâu bị điều kiện hóa trong cảm
giác thường trực bất an và luôn luôn bị ám ảnh về quá khứ bành trướng của người
Việt với cuộc Nam Tiến, nên mọi chiến dịch chống Việt Nam bất kỳ trong hoàn cảnh
nào vẫn đáp ứng một phần tâm tư thầm kín của người dân Khmer. Đối với các nhà
hoạt động chánh trị Cam Bốt mị dân hay không, thì bài xích chống Việt Nam là một
bằng chứng yêu nước.
Không ai ngạc nhiên cứ thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm
sát “cáp duồn” người Việt sống trên đất Chùa Tháp rất ư là kinh hoàng. Lâu lâu
lại có hàng trăm xác người kể cả đàn bà và trẻ em bị người Khmer chặt đầu mổ bụng
thả trôi trên con sông Mekong loang máu, vẫn là cảnh tượng hãi hùng gây xúc động
cho toàn thế giới.
Ngay thời Lol Nol, một chính quyền thân Mỹ cũng đã phát động
một cuộc tổng ruồng bắt và "cáp duồn" người Việt khủng khiếp nhất
trên quy mô cả nước. Đến thời kỳ Khmer Đỏ, một số lớn người Việt cũng đã bị thảm
sát qua các cuộc tẩy sạch chủng tộc / ethnic cleansing. Không cần che dấu ngay
giữa thủ đô Nam Vang trên những bức tường, những dòng chữ khích động chiến dịch
giết hết người Việt trên đất Chùa Tháp; cả bằng tiếng Pháp tiếng Anh nhắm vào ống
ảnh của đám ký giả ngoại quốc: "We must kill all Viets in Cambodia".
Thời Khmer Đỏ, Pol Pot không chỉ giết người Việt, mà còn tra tấn sát hại rất
nhiều người Khmer bị nghi là thân Việt Nam với tội danh gán cho họ là bọn
"xác Khmer hồn Việt", như thứ cỏ dại cần phải tiễu trừ. Rồi cũng Pol
Pot tố cáo ngược lại chính Việt Nam mới là thủ phạm của bấy nhiêu sọ người trên
khắp Những Cánh Đồng Chết ở Cambodia và không phải là không có những người
Khmer cả tin như vậy.
Dù đã trải qua nhiều thế hệ sống trên xứ Chùa Tháp, đám người
Việt tha hương này vẫn luôn luôn bị nghi kỵ và cả thù ghét. Cáp Duồn là những đợt
người Khmer nổi dậy tàn sát cắt cổ người Việt không phải chỉ có trên đất nước
Cam Bốt mà ngay cả nơi ĐBSCL trong “Mùa Thổ Dậy” là những ngày đẫm máu kinh
hoàng chẳng thể nào quên.
Con số người Việt hiện ở Cam Bốt là 200 ngàn, 400 ngàn, hay
hơn một triệu – không ai biết chắc. Đám người Việt tha phương ấy, cùng với cộng
đồng người Chăm, cư ngụ dọc theo hai bên bờ sông Mekong, sông Tonle Sap và tập
trung quanh Biển Hồ, sống trên những căn nhà sàn tạm bợ chênh vênh trên những
cây cột cao có thể gỡ ra chất lên ghe xê dịch trên mặt hồ theo mùa nước lên xuống.
Đa số sống bằng nghề hạ bạc đánh cá làm cá thuê vô cùng vất vả. Cực thì có cực
nhưng họ đã đặt chân trên một vùng đất lên dễ khó về.
Nam Vang lên dễ khó về
Trai vô bạn biển, gái về tào kê
“Chống Việt Nam” bằng bất cứ giai thoại nào đúng hay sai vẫn
luôn luôn là một chiêu bài ăn khách và thu phiếu cho bất cứ cuộc vận động tranh
cử nào ở Cambodia. Khó mà tìm được một người Khmer nói tốt về người Việt đang sống
trên đất nước của họ. Một thành viên nhóm bảo vệ nhân quyền đã kể lại với ký giả
báo Far Eastern Economic Review (1994): "Nếu có được quyền lựa chọn thì đa
số người Khmer đều muốn tống xuất tất cả người Việt ra khỏi Cambodia." Người
Khmer có thể chia rẽ nhưng họ luôn đoàn kết trên mặt trận chống người Việt bắt
nguồn từ "mối thù hận lịch sử."
ĐẾN TRI TÔN ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG MÁU LỆ
Từ Tịnh Biên theo quốc Lộ 91, hướng nam qua Chi Lăng là TT
Huấn Luyện cũ thời VNCH, qua rặng Núi Cấm đứng uy nghi phía tây. Đường tới Tri
Tôn, hai bên toàn màu xanh với những cây thốt nốt và cả các mái chùa vàng uy
nghi kiến trúc Khmer.
Nhưng tới với Tri Tôn cũng là đi trên một con đường máu lệ:
không thể không nhớ tới địa danh thị trấn Ba Chúc và Chùa Phi Lai, là những
Cánh Đồng Chết / Killing Fields, tưởng như mới hôm qua. Những cuộc thảm sát người
Việt của Khmer Đỏ trải dài bên tả ngạn con kênh Vĩnh Tế xuống tới Hà Tiên ra xa
tới đảo Thổ Chu.
_ 18.04.1978: Khmer Đỏ tràn vào thị xã Ba Chúc, huyện Tri
Tôn, tỉnh An Giang giết 3,157 thường dân bị sát hại
_ 20.04.1978: Khmer Đỏ đến chùa Phi Lai bắn giết thêm 150
thường dân đang lẩn trốn tại đây.
[Nói tới các vụ thảm sát của Khmer Đỏ, không thể không nhắc
tới một vụ thảm sát sớm hơn trên đảo Thổ Chu. Ngày 12.05.1975, Khmer Đỏ tràn
qua đánh chiếm đảo Thổ Chu, thuộc tỉnh Kiên Giang giết và bắt toàn bộ 515 cư
dân trên đảo, trong số đó có hai mẹ con nữ sĩ Phùng Thăng. Theo nhà văn Trần
Hoài Thư, bạn học cùng lớp với Phùng Thăng, chị nổi tiếng với bản dịch
"Câu Chuyện Dòng Sông" của Herman Hesse, dịch chung với người chị là
Phùng Khánh. Chị Phùng Thăng và con đã chết bi thảm trên hòn đảo nhỏ Thổ Chu, nằm
phía cực tây nam đảo Phú Quốc, lúc ấy chị mới 32 tuổi cùng với con gái Tiểu Phượng
9 tuổi.]
GIẢI LỜI NGUYỀN: MEKONG DÒNG SÔNG NỐI KẾT
Bước vào Thiên niên kỷ Thứ Ba của toàn cầu hoá /
globalization, để thấy rằng biên giới chánh trị giữa các quốc gia chỉ là một làn
ranh ảo. Không hề có biên giới trong toàn hệ sinh thái / ecosytem của con Sông
Mekong. Con Sông Mekong không chỉ là mạch sống / lifeline của hai dân tộc Việt
Khmer mà còn là một sợi dây nối kết chung sống hoà bình giữa các quốc gia chứ
không phải là nguyên nhân gây chia rẽ.
Bên trong và bên ngoài, cùng những trăn trở chung về Hệ Sinh
thái Sông Mekong, chúng tôi cùng hướng tới một mẫu số chung: phác thảo kế hoạch
từng bước bền vững khai thác tài nguyên con Sông Mekong, cùng phấn đấu cho những
bước phát triển đồng bộ cho toàn lưu vực, với tầm nhìn toàn vùng / regional
vision chứ không phải cục bộ.
Một ví dụ: Khi chia sẻ với một số chuyên gia trong nước và
ông Senglong Youk, Phó Giám Đốc Liên Hội Ngư Nghiệp (Deputy Executive Director
at Fisheries Action Coalition Team, FACT) và Phát Ngôn Viên cho Nhóm Bảo Vệ
Tonle Sap (Tonle Sap Lake Waterkeeper, TSW), KS Pham Phan Long đề nghị để cứu
vãn Biển Hồ Tonle Sap, Cambodia và Việt Nam cần hợp tác vận động việc phối hợp
quy trình vận hành tất cả các đập Mekong để bảo đảm Biển Hồ Tonle Sap đạt đủ
dung lượng 80 tỉ mét khối lũ cần để phục hồi hệ sinh thái Biển Hồ đồng thời có
nước để chảy về ĐBSCL lượng nước cần cho sinh hoạt, bảo đảm khả năng chống hạn
và xâm mặn vào mùa khô. Số nước cần thiết cho ĐDBSCL vào mùa khô theo GS Trương
Đình Dụ và Th.S Trương Thu Hằng là khoảng 10 tỉ mét khối và theo ước tính TS Lê
Anh Tuấn Viện DRAGON thì vận tốc dòng chảy để đẩy mặn là 10,000 m3/s.
Một ví dụ khác: KS Phạm Phan Long và một số thành viên của
các tổ chức bảo vệ Môi sinh đang có những vận động thuyết phục về tính khả thi
nhằm triển khai Năng Lượng Tái Tạo / NLTT thay vì tiếp tục 7 dự án thuỷ điện của
Lào, 2 của Cambodia, và để cùng thấy rằng mọi phía trong toàn lưu vực / Mekong
Basin đều có lợi / win-win situation, theo đúng hướng đi thời đại về năng lượng
xanh của toàn cầu. (5)
Để hoá giải mối thù hận Việt Khmer như một tồn tại lịch sử,
tuy vô cùng khó khăn nhưng vẫn phải có bước khởi đầu để hướng tới. Điều thiết yếu
là phải có một giới lãnh đạo mạnh từ hai quốc gia, với tầm nhìn lịch sử, có quyết
tâm chánh trị, có hậu thuẫn của dân chúng, để can đảm cùng nhau mở ra những vết
thương tuy đau đớn nhưng có cơ hội chữa lành.
Năm 2018, sẽ là một năm của ước vọng hàn gắn / healing
process những đổ vỡ, phục hồi niềm tin, tiến tới triển vọng hợp tác trong “Tinh
Thần Sông Mekong / Mekong Spirit” như một mẫu số chung để cùng nhau phát triển,
cùng nhau hướng tới một tương lai thịnh vượng chung và hòa bình cho toàn vùng.
THAY LỜI KẾT: MỘT KHOẢNH KHẮC BÌNH AN
TS Dương Văn Ni và người viết đang giúp mấy cháu bé hồn
nhiên hái trái cây trứng cá bên tả ngạn bờ Sông Hậu, nơi sát một khúc sông đang
bị sạt lở. Cầu mong cho thế hệ các cháu vẫn còn được sống trong một môi trường
xanh nhưng rồi ra, ai sẽ bảo vệ vùng trờ
TS Dương Văn Ni và người viết đang giúp mấy cháu bé hồn
nhiên hái trái cây trứng cá bên tả ngạn bờ Sông Hậu, nơi sát một khúc sông đang
bị sạt lở. Cầu mong cho thế hệ các cháu vẫn còn được sống trong một môi trường
xanh nhưng rồi ra, ai sẽ bảo vệ vùng trời.
NGÔ THẾ VINH
Châu Đốc - Tân Biên - Tri Tôn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét