Tạp ghi Huy Phương
Cách đây khoảng 10
năm, sau một chuyến đi xa, trên đường trở lại California, vợ chồng chúng tôi và
hai người bạn đang ngồi chờ đổi máy bay tại phi trường Atlanta, thì bất chợt một
ông Việt Nam trung niên, áo vest, thắt cà vạt, tiến về phía ghế ngồi của chúng
tôi. Một cách mừng rỡ và vội vã, không kể người trước mặt mình là đàn ông hay
đàn bà, quen hay lạ, y thọc tay về phía chúng tôi: - “Các bác là người Việt
Nam!” Không đợi câu trả lời, quơ được bàn tay của chúng tôi đưa ra một cách phản
xạ, y lắc đấy lắc để.
Phải nói là chúng tôi
phản ứng quá chậm hay gần như không có phản ứng gì.
Cho đến lúc người đàn
ông lạ mặt này thấy không mấy phấn khởi với cuộc làm quen này, quay lưng đi,
chúng tôi vẫn ngồi yên tại chỗ, lặng lẽ và ngao ngán không nói một câu gì. Phải,
chúng tôi là người Việt Nam, nhưng cuộc gặp gỡ với một người Việt Nam kỳ này
không đem lại điều gì hứng thú cho chúng tôi, qua ngôn ngữ và cách xử thế,
chúng tôi thấy có một khoảng cách khá lớn, và cũng là người Việt Nam, nhưng tôi
cảm thấy y không giống tôi, ngoài một thứ ngôn ngữ đã khá dị ứng, con người này
như đến từ một xứ sở nào khác.
Như thế, ít ra tôi
cũng đã hiểu vì sao một người Tàu ở Hồng Kông trước năm 1999 chỉ nhận họ là người
Hồng Kông, hay sau 1949, những người Tàu ở Đài Loan, cho rằng mình là người Đài
Loan (“Trung Hoa Dân Quốc” hay “Trung Hoa Đài Bắc”) để khỏi nhầm với Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa (Trung Hoa lục địa hay Cộng Sản Trung Hoa). Hẳn không một
người Nam Hàn nào thích hiểu lầm họ là người Bắc Hàn (được Việt Nam gọi là Triều
Tiên) và trước đây giữa người Đông và người Tây Đức mặc dầu nguồn gốc của họ là
người Đức. Người ta không thể phủ nhận nguồn gốc của mình nhưng có thể phủ nhận
chính thể đương thời và lựa chọn quốc tịch cho mình.
Chỉ có hai tiếng Bắc
Kỳ thôi, và chỉ trong vòng 30 năm, người Việt Nam cũng đã chọn chỗ đứng rõ ràng
khi phân biệt ai là Bắc Kỳ cũ, Bắc Kỳ mới, ai là Bắc Kỳ “chín nút” (54), ai là
Bắc Kỳ 75! Nếu trong câu chuyện nói, còn có chút gì kỳ thị, thì chúng ta cũng
không nên trách, đây không phải là chuyện đoàn kết dân tộc, mà là chuyện văn
hóa và chính kiến, nó phát xuất từ những khổ đau và bất hạnh mà con người ta phải
gánh chịu, qua những thăng trầm của lịch sử.
Tôi là người Việt
Nam, và những ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường hãnh diện mình là người Việt Nam, với
“bốn nghìn năm văn hiến,” “con Rồng cháu Tiên,” lớn lên trong thời loạn lạc,
người chẳng ra người, ta lại được hãnh diện thêm vì quê hương mình “rừng vàng
biển bạc,” thủ đô “là đỉnh cao trí tuệ của loài người,” “đánh thắng ba đế quốc
sừng sỏ!” “mỗi buổi sáng thức dậy ước mơ mình trở thành một người Việt Nam,”
“Việt Nam dân chủ gấp vạn lần các nước Tây phương,” “vị thế Việt Nam tiếp tục
được nâng cao trên trường quốc tế!” thì không còn gì để có thể hãnh diện hơn được
nữa!
Gom tất cả tinh hoa của
người Việt trên thế giới để làm những tác phẩm vĩ đại để ca tụng con người Việt
Nam là điều không khó, vì những khuôn mặt thành đạt vẻ vang này ở nước ngoài,
sau ngày phải bỏ nước ra đi, chúng ta không chỉ có hàng chục nhân vật đủ làm một
tác phẩm mà con số này có thể lên đến hàng trăm, hàng nghìn người. Nhưng nếu tập
họp họ lại, xếp hàng ngay ngắn như trong một cuộc “diễu hành,” có một mỹ nhân mặc
quốc phục dẫn đầu cầm một tấm bảng lớn mang dòng chữ “Tôi là người Việt Nam”
thì điều này quả còn quá nhiều gượng ép.
Đồng ý nguồn gốc họ đều
là những người Việt Nam, có người bỏ nước ra đi từ ngày chủ thuyết Cộng Sản đến
Việt Nam, nhưng cũng có người sinh ra ở nước ngoài, mỗi người có một cuộc đời,
hoàn cảnh, tình cảm và chính kiến khác nhau. Nếu có ai hỏi họ: - “Ông bà là người
Việt Nam?” thì câu trả lời sẽ là: - “Phải, tôi là người Việt Nam! Nhưng đó là
câu chuyện cách đây 40 năm. Đó là một câu chuyện dài!”
Trong chúng ta, ai
cũng có một câu chuyện dài phải được kể lại, hay bây giờ mới được kể lại!
Những nhà tuyên truyền
thường nhắc đến tình tự dân tộc, biểu tượng từ một tiếng đàn bầu, một tiếng hò
trên sóng nước để gợi cho con người nhớ đến quê hương. Người ta lập lại mãi câu
nói “quê hương chỉ một” hay anh em đi xa là “khúc ruột ngàn dặm” và không ngừng
kêu gọi một sự trở về tha thiết, - “Nếu đi hết biển thì đến đâu hở mẹ!”- “Đi hết
biển thì sẽ trở về làng cũ!” Vì sao con chim phải bay trở lại cái lồng đã giam
hãm nó, có khi là cái thòng lọng hay cái cũi nhốt của một con vật. Đó là con
người của tự do, có ý thức, không phải chiếc xe lửa chạy lui tới trên đường
ray.
Có người đem chuyện
người Việt lưu lạc của Kiến Bình Vương Lý Long Tường (1136-1175) là con thứ sáu
của vua Lý Anh Tông, đã cùng họ hàng vượt biển Bắc vào đầu thế kỷ thứ 13 vì bị
phe cánh Trần Thủ Độ hãm hại, sau đó trôi giạt đến Cao Ly, để nói chuyện người
Việt trở về tìm lại nguồn cội. Xin quý vị yên tâm đi, không cần phải nói chuyện
đạo lý, nhân nghĩa, Cộng Sản thôn tính miền Nam mới nửa thế kỷ, dòng dõi Lý
Long Tường bỏ nguồn cội đã bảy tám thế kỷ này. Thời gian hãy còn quá sớm để cho
những người Việt lưu lạc tha phương trở về.
Hình ảnh tìm về cội
nguồn hẳn là đã được ca ngợi rất nhiều.
Truyền thống dân gian
cho rằng loài cá hồi trở về đúng nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng, nhưng cuộc
nghiên cứu đã cho thấy hành động quay lại nơi ra đời này đã được thể hiện phụ
thuộc vào ký ức khứu giác và thói quen, hẳn không hề có ý nghĩa về cội nguồn.
Và trong một câu chuyện khác, hàng năm vào mùa Xuân, những đàn én từ phương Nam
đã bay trở về nhà nguyện San Juan Capistrano (California) và về phía Nam Mỹ là
để trốn mùa Đông giá rét. Đến mùa nắng ấm, chúng lại bỏ gác chuông nhà thờ để
ra đi, không hề có có ý niệm trở về hay qui cố hương.
Nếu câu hỏi đặt cho một
người và câu trả lời dành cho một người, nó mang một ý nghĩa khác, nhưng khi
chúng ta tập trung họ lại, cố tình hướng dẫn họ thành một đám đông và mở đường,
sắp xếp cho họ có chung một câu trả lời theo dụng ý của những nhà đạo diễn, tôi
cho đây là điều thiếu đạo lý.
Vả lại, điều dễ thấy
rõ, hàng chục người vừa tuyên bố mình là người Việt Nam ở đây đều nằm trong 3
triệu người, bỏ nước ra đi, bằng lý do này hay lý do khác; họ không có nổi một
tờ giấy tùy thân hay một “sổ đăng ký hộ khẩu thường trú” của chế độ đương thời,
vậy thì họ là ai, người Việt nhưng người Việt nào? Câu trả lời gần như được xếp
chung một loại “thấy sang bắt quàng làm họ!” Quơ vào những cái quả thực không
phải của mình. Mục đích của người làm phim đã quá rõ ràng. Chẳng qua là khán giả
của loại chương trình này quá dễ dãi, họ dễ chấp nhận một cái vui nhỏ, một cái
cười cợt dính ngoài môi, để quên đi những điều cốt lõi mà họ đang được mời tham
dự, mà nội dung đã được tính toán, có dụng ý chính trị, của ông chủ chi tiền.
Phải chăng trong
không khí rộn ràng của màu sắc, âm nhạc, da thịt, phấn son, ít ra trong một thời
gian ngắn người ta quên được những khuôn mặt Việt Nam cần phải được cởi áo che
tại Nhật, hàng nghìn khuôn mặt phụ nữ khổ đau xấu hổ không dám nhìn ai trên quê
hương nhầy nhụa hôm nay.
Rõ ràng là chế độ
tham lam, ham muốn chạy theo những thành công nhất thời của mỗi con người không
phải trong xã hội của mình để áp đặt hai chữ Việt Nam, mà không chịu xây dựng
được một con người tử tế ngay trong xã hội của mình.
Chúng ta hãy nghe
phát biểu của ông Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẫn, cố bí thư thứ nhất đảng
CSVN, trên vietnam.net trong vài ngày gần đây: “...tôi cứ băn khoăn mãi. Hôm
trước mở báo ra tôi cứ bị ám ảnh hình ảnh hai ông già đi ăn trộm gà bị bắt, bị
đánh hộc máu mồm ra, rồi bắt ngậm con gà chết. Tôi cứ bàng hoàng, tự hỏi: 'Chẳng
lẽ đây là người Việt Nam chúng ta?'”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét