Ngô Đình Nhu (1910-1963)
VIỆT NGỮ VÀ HOA NGỮ
Trong một đoạn ở
trên, so sánh hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng và của Việt Nam, chúng ta đã
chứng minh rằng, hoàn cảnh phát triển của Việt Nam có điều nhiều kiện thuận lợi
hơn, trong đó có nhiều điều kiện về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ của một Cộng
Đồng Dân Tộc, đương nhiên là dụng cụ của nền văn hóa của Cộng Đồng. Nhưng ngôn
ngữ chỉ trở thành một dụng cụ sung mãn của nền văn hóa khi nào ngôn ngữ gồm được
hai đức tính: Dễ học để trở thành một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại
chúng, và chính xác để trở thành một dụng cụ suy luận tinh vi và sắc bén.
Hoa Ngữ là một loại
sinh ngữ biểu ý, mỗi một chữ ghi một ý niệm. Vì thế cho nên, một người Tàu muốn
sử dụng được Hoa Ngữ một cách trung bình phải nằm lòng một số tối thiểu là từ
ba ngàn đến bốn ngàn chữ. Sự cố gắng về lý trí vượt mức thông thường đó, đã tạo
ra sự tôn sùng Nhà Nho, trong xã hội Trung Hoa và trong xã hội Việt Nam khi
xưa.
Hoa Ngữ hoàn toàn bất
lực khi phải đóng vai trò dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng cho văn hóa.
Cũng vì trở lực tạo ra bởi một sinh ngữ biểu ý, mà văn minh Tàu khi xưa, mặc dầu
lên đến cao độ, vẫn không có sinh lực bành trướng như văn minh Tây phương ngày
nay.
Lối hành văn của Hoa
Ngữ là lối hành văn ‘’khiêu ý’’ cho nên câu văn không có kiến trúc. Mà câu văn
không có kiến trúc là một câu văn không có chính xác. Và một sinh ngữ không
chính xác không thể trở thành một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi được. Vì
không có dụng cụ ngôn ngữ suy luận sắc bén và tinh vi để sử dụng trong công cuộc
thám cứu vũ trụ vật chất và vũ trụ tâm linh, nên người Trung Hoa xưa đã thay thế
suy luận bằng trực giác. Chúng ta đã xem qua trong một đoạn trên, ưu và khuyết
điểm của trực giác. Tuy nhiên, có một sự kiện thiết thực không thể phủ nhận được
là trong các nền văn minh cổ, chỉ có nền văn minh Trung Hoa là rất yếu kém về
toán học và rất nghèo nàn về triết lý.
Nguyên do là Hoa Ngữ,
với lối văn khiêu ý, hoàn toàn bất lực khi đóng vai trò dụng cụ suy luận tinh
vi và sắc bén.
Và chính ngày nay, mặc
dầu Trung Hoa đang áp dụng những biện pháp huy động độc tài đảng trị cộng sản cực
kỳ tàn nhẫn, để dốc hết nỗ lực của tám trăm triệu dân vào công cuộc Phát Triển
Dân Tộc bằng cách Tây Phương Hóa, chúng ta cũng có thể đoán biết rằng, công cuộc
phát triển của Tàu, nếu có vượt được những trở lực vật chất và chính trị to
tát, mà chúng ta đã biết, sẽ không vượt được một giới hạn ấn định bởi ảnh hưởng
kìm hãm của một ngôn ngữ, không thể là một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại
chúng, và một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi.
Việt Ngữ xưa kia dùng
chữ Hán và chữ Nôm hoàn toàn lệ thuộc Hoa Ngữ, nên đã có một thời kỳ cũng bất lực
trong vai trò dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng. Chỉ xét qua di sản văn
hóa, vừa nghèo nàn vừa giới hạn của chúng ta, chúng ta càng ý thức được hậu quả
tai hại của sự lệ thuộc và sự bất lực đó trong một ngàn năm. Nhưng từ ngày Việt
Ngữ được ghi âm bằng mẫu tự La Mã thì đã được giải thoát khỏi sự bất lực trên.
Một sự kiện rất cụ thể tiêu biểu cho sự giải thoát này là, trong tất cả các
sinh ngữ trong xã hội Đông Á ngày nay, Việt Ngữ là sinh ngữ duy nhất, có thể
dùng máy đánh chữ mà viết ra được. Sự kiện trên lại làm bộc lộ tầm xoay trở rộng
rãi của lối ghi âm, sánh với lối biểu ý.
Sự ghi âm Việt Ngữ bằng
mẫu tự La Mã thay thế cho chữ Nôm và chữ Hán, là một ví dụ thành công của công
cuộc Tây Phương Hóa của chúng ta, trong một phạm vi nhỏ, nhưng quan trọng và
quyết định, phạm vi ngôn ngữ. Sự thành công này, đương nhiên gieo cho chúng ta
một sự tin tưởng mãnh liệt vào những thành công phong phú hơn nữa, trong những
phạm vi rộng lớn của công cuộc Tây Phương Hóa mà chúng ta đang theo đuổi.
Riêng sự ghi âm Việt
Ngữ bằng mẫu tự La Mã đã là, như chúng ta vừa thấy, một ưu thế không phủ nhận
được của Việt Ngữ đối với Hoa Ngữ, trên nhiều phương diện. Nhưng sự ghi âm, bằng
mẫu tự La Mã còn mở cửa cho Việt Ngữ một sự phát triển khác mà hậu quả sẽ có một
tầm quan trọng bội phần hơn. Sự ghi âm Việt Ngữ bằng mẫu tự La Mã, sẽ cho phép
chúng ta kiến trúc câu văn như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên. Và câu
văn, một khi đã được kiến trúc hóa, Việt Ngữ đương nhiên sẽ trở thành một dụng
cụ suy luận sắc bén và tinh vi.
Lúc bấy giờ Việt Ngữ
vừa là một dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng, vừa là một dụng cụ suy luận
sắc bén và tinh vi, sẽ là một dụng cụ hữu hiệu cho nền văn hóa Việt Nam. Sánh với
Hoa Ngữ, ưu thế lại càng rõ rệt hơn nữa.
Lúc bấy giờ, chẳng những
văn hóa Việt Nam hoàn toàn không còn lệ thuộc văn hóa Tàu, mà sự phát triển văn
hóa của chúng ta sẽ lên đến một trình độ ước mong, khả dĩ góp một phần đáng kể
vào di sản của văn minh nhân loại, nhờ sinh lực dồi dào mà một dụng cụ ngôn ngữ
hữu hiệu sẽ tạo ra cho văn hóa chúng ta.
Triển vọng về ngôn ngữ,
dụng cụ văn hóa đã như vậy, thế hệ của chúng ta không có một lý do nào để không
vận dụng tất cả nỗ lực, nắm lấy cơ hội đưa đến cho chúng ta để thực hiện trong
lĩnh vực văn hóa, ý chí của tiền nhân: Cởi bỏ ách tâm lý thuộc quốc đối với nước
Tàu, cho Dân Tộc. Và thế hệ của chúng ta, không có một lý do nào, để từ bỏ sự
phát triển văn hóa dồi dào mà chắc chắn, Việt Ngữ chỉnh đốn sẽ dành cho chúng
ta, để cam chịu một sự lệ thuộc, đối với một văn hóa, mà Hoa Ngữ không bảo đảm
sự phát triển. Và các nhà lãnh đạo, vì vô tình hay cố ý, làm cho Cộng Đồng quốc
gia của chúng ta lỡ cơ hội này, chẳng những sẽ phản bội quyền lợi Dân Tộc mà
còn phải mang hết trách nhiệm của một cuộc sống lệ thuộc, không vùng vẫy nổi,
mà các thế hệ trong tương lai, vì lầm lỗi của họ, sẽ phải quy phục trong nhiều
ngàn năm nữa.
Chúng ta đã chứng
minh trong một đoạn trên rằng, sự quy phục thuyết cộng sản của một số nhà lãnh
đạo của chúng ta, đã làm cho công cuộc tranh đấu giành độc lập trở nên vô cùng
tiêu hao sinh lực của Dân Tộc. Tuy nhiên, những sự hy sinh cao cả của các phần
tử của Cộng Đồng không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính
kiêu hùng của Dân Tộc trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù.
Trong một đoạn khác,
chúng ta đã phân tích rằng, vì bị sự chi phối của tâm lý thuộc quốc, đối với nước
Tàu trong hơn tám trăm năm, đè nặng trên đời sống của Dân Tộc, nên một số nhà
lãnh đạo đã cố tròng vào thân thể Việt Nam, cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa, mà Tôn
Văn đã gắng công nghiên cứu may cắt cho Dân Tộc của ông. Tuy nhiên, những thành
tích chiến đấu giải thoát Dân Tộc của các nhà cách mạng quốc gia, không bao giờ
phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được những trang vẻ vang, mà họ đã nhân
danh Tam Dân Chủ Nghĩa, viết bằng xương máu trong lịch sử Dân Tộc.
Chúng ta lại vừa
trình bày rằng, thế hệ của chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nắm lấy cơ
hội đưa văn hóa chúng ta thoát khỏi sự chi phối của văn hóa Tàu, và nhân đó
tiêu diệt yếu tố quan trọng nhất trong hai yếu tố, đã trong hơn một ngàn năm, bồi
đắp cho tâm lý thuộc quốc của chúng ta, đối với Trung Hoa. Tuy nhiên, di sản
văn hóa của Dân Tộc thoát thai tù nền văn minh chung của xã hội Đông Á, không
bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được những kiến thức uyên thâm
và những mẫu người thoát thường, mà nhiều cá nhân Việt Nam đã đạt đến được, nhờ
một sự trụ đúng mức vào các tiêu chuẩn giá trị của nền văn minh Tàu.
Trong ba trường hợp
trên, thái độ của chúng ta là thái độ của một nhà bác học về quang học, khi nhận
thấy rằng, thuyết ánh sáng phát quang theo đường thẳng không còn giải thích được
nhiều biện tượng quang học, và cần phải được thay tế bằng một thuyết khác.
Nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận rất cả các định luật về quang học, đã được
phát minh khi nhà bác học đã trụ vào thuyết ánh sáng phát quang theo đường thẳng,
bởi vì những định luật này đã thuộc vào di sản phát minh của ngành quang học.
Tính khí
Một khi đã sử dụng được
những dụng cụ để rèn luyện những đức tính làm căn bản cho kỹ thuật của Tây
phương, sự chế ngự được kỹ thuật của họ thành công hay thất bại tùy thuộc rất
nhiều ở một đức tính khác: Tính khí.
Trong một đoạn trước
đây, liên quan đến việc kê khai cái vốn sẵn có của chúng ta, trước khi bắt tay
vào công cuộc Tây Phương Hóa, chúng ta đã nhận thấy rằng tính khí của cá nhân
thiết yếu cho Cộng Đồng hơn cả thông minh của trí óc.
Các Dân Tộc đã thành
công trong mọi sự nghiệp đều là những Dân Tộc có tính khí rất cao. Và giữa hai
Dân Tộc, cùng một hoàn cảnh, một cái vốn cùng đứng trước một thử thách và cùng
áp dụng một giải pháp thì Dân Tộc nào có tính khí cao hơn, sẽ thắng lợi nhiều
hơn. Một ví dụ mà chúng ta đã nêu lên là hai Dân Tộc Anh và Pháp.
Cũng như đối với nhiều
đức tính khác cao quí của con người, định nghĩa chi tiết tính khí là một việc
không dễ. Bởi vì tính khí thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Và tính khí thể hiện
một cách mạnh bạo nhất không phải chỉ ở trong những cơn khủng hoảng kích thích
đến tột độ các khả năng của cá nhân. Trong những cơn khủng hoảng tương tự, ví dụ,
đứng trước một nguy cơ trầm trọng, con người có thể trong một thời gian ngắn tập
trung đến mức tối đa tất cả năng lực lúc bình thường tản mác các nơi. Và nhân
thế có thể có những hành động phi thường, khắc phục trở lực bên ngoài đưa đến.
Nhưng không phải những
lúc đó là những lúc tính khí đương đầu với những thử thách gian nguy nhất. Ngược
lại những lúc bình thường của đời sống mới, vừa có năng lực tiêu hao tính khí,
vừa rèn luyện tính khí. Đời sống thường ngày mới là chiến trường, thử thách trường
kỳ đối với tính khí. Và cũng chính đời sống thường ngày mới là phạm vi phát triển
của tính khí.
Tính khí có điều kiện
phát triển, ở một cá nhân hay trong một Cộng Đồng, khi nào cá nhân hay Cộng Đồng
tin tưởng một cách vũng chắc vào một số tiêu chuẩn giá trị làm nền tảng cho đời
sống Cộng Đồng. Bất cứ trong một xã hội nào, nếu các tiêu chuẩn giá trị còn giữ
nguyên vẹn uy tín, thì tính khí đương nhiên sẽ nảy nở ra những hoa quả vô cùng
tốt đẹp.
Vì vậy cho nên, những
điều kiện có khả năng bảo vệ các tiêu chuẩn giá trị, cũng có khả năng phát huy
tính khí. Chúng ta đã thấy, ở một đoạn trên, rằng một trong các điều kiện nói
đây là sự liên tục trong vấn đề lãnh đạo Cộng Đồng.
Xã hội của Việt Nam
trước đây theo Nho Giáo, toàn thể Cộng Đồng đều tin, một cách mãnh liệt vào các
tiêu chuẩn giá trị của Khổng Mạnh. Nhờ đó xã hội chúng ta đã sản xuất được rất
nhiều gương tính khí hùng mạnh. Cái tiết tháo của Nhà Nho xưa ta là một hiện tượng
của tính khí.
Nhưng cùng với sự sụp
đổ về quân sự của quốc gia, nước chúng ta bị đô hộ, xã hội chúng ta tan rã vì
các tiêu chuẩn giá trị cũ bị văn minh Tây phương đả phá đến tột độ. Đồng thời với
sự mất uy tín của các tiêu chuẩn giá trị cũ, tính khí của Dân Tộc chúng ta suy
đồi. Xã hội càng tan rã, tính khí càng mất. Và tính khí càng mất, xã hội càng
tan rã hơn.
Như vậy thì công cuộc
đào luyện tính khí cho Cộng Đồng phải bắt đầu bằng sự nêu lên các tiêu chuẩn
giá trị làm nền tảng cho đời sống của Cộng Đồng.
Tiêu chuẩn giá trị.
Trong hiện tình của
văn minh nhân loại, có nhiều tiêu chuẩn giá trị đã trở thành những di sản bất
di bất dịch của loài người.
Ví dụ tiêu chuẩn giá
trị nằm trong câu: ‘’Quân tử dĩ tự cường bất tức’’ (2) là một tiêu chuẩn giá trị
đã trở thành di sản của nhân loại.
Tổ chức gia đình là một
tiêu chuẩn giá trị khác mà nhân loại đã thâu thập được sau nhiều năm tìm kiếm.
Cộng Đồng nhân loại
là một tiêu chuẩn giá trị đang hình thành.
Lẽ đương nhiên các
tiêu chuẩn giá trị thuộc loại trên, sẽ là những tiêu chuẩn giá trị mà xã hội
chúng ta sẽ tin tưởng.
Có nhiều tiêu chuẩn
giá trị khác mặc dù chưa lên hàng những tiêu chuẩn giá trị mà tất cả nhân loại
đều tin tưởng, chúng ta cũng chia xẻ sự tin tưởng vào các tiêu chuẩn giá trị đó
với nhiều Cộng Đồng Dân Tộc khác.
Ví dụ tiêu chuẩn giá
trị Cộng Đồng Dân Tộc, tiêu chuẩn giá trị tự do con người. ‘’Lý do của cuộc sống
là một lý do cá nhân. Điều kiện của cuộc sống là một điều kiện Cộng Đồng’’ cũng
là một tiêu chuẩn giá trị mà chúng ta chia xẻ với nhiêu Cộng Đồng khác trên thế
giới.
‘’Lãnh đạo là tạo một trạng thái thăng bằng động
tiến giữa cá nhân và Cộng Đồng’’ là một tiêu chuẩn giá trị khác.
Nhiều tiêu chuẩn giá
trị tương tự, hoặc đã nằm trong các phần được trình bày trong các trang trên
đây, hoặc là những kết luận đương nhiên của các suy luận, cũng là những tiêu
chuẩn giá trị mà chúng ta tin thưởng. Ví dụ: Công bình xã hội.
Ngoài ra vì công cuộc Tây Phương Hóa mà Dân Tộc
theo đuổi để sinh tồn, chúng ta sẽ tin tưởng vào những tiêu chuẩn giá trị của kỹ
thuật Tây phương.
Chúng ta sẽ tin tưởng
ở sự tiến bộ không ngừng của kỹ thuật Tây phương. Chúng ta sẽ tin tưởng ở các đặc
tính chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Lại có tiêu chuẩn giá trị là di sản của truyền
thống văn minh Á Đông. Chúng ta tin rằng sự phát triển vật chất phải được thực
hiện đồng thời với sự phát triển tâm linh.
Thực luyện tính khí.
Tiêu chuẩn giá trị đã
có rồi, tính khí sẽ có cơ hội nảy nở. Tuy nhiên sự nảy nở của tính khí vẫn còn
tùy thuộc hai điều kiện.
Trước hết các phần tử
của Cộng Đồng phải tin tưởng vào các tiêu chuẩn giá trị đã được chấp nhận. Đó
là nhiệm vụ của tổ chức giáo dục chính danh và tổ chức giáo dục quần chúng.
Điều kiện thứ hai là
có những phương pháp vật chất, hoặc cá nhân, hoặc tập thể, để luyện tính khí. Mục
đích trực tiếp của các phương pháp trên là huấn luyện cho mỗi cá nhân tập quán
chế ngự cơ thể và tư tưởng của mình. Sự huấn luyện lúc nào cũng bắt đầu với những
phương pháp chế ngự cơ thể, bởi vì hành động đối với vật chất cụ thể dễ hơn
hành động đối với tư tưởng trừu tượng. Trong những phương pháp này, thì cho đến
ngày nay, các môn thể thể thao có hướng dẫn đã tỏ ra có hiệu quả nhất. Các môn
thể thao tập cho ý chí chủ động các bắp thịt và các phản ứng của cơ thể.
Ý chí đã chủ động được
cơ thể thì lần lần đạt được lên trình độ chủ động được tư tưởng. Các môn thể
thao tập thể còn được khả năng huấn luyện ý thức Cộng Đồng và trang bị cá nhân
với những phản ứng cần thiết cho một đời sống Cộng Đồng. Chính trong các môn thể
thao tập thể thể hiện ra một cách cụ thể, dễ nhìn hơn hết, ý nghĩa của mệnh đề
‘’Lý do của đời sống là cá nhân. Điều kiện của đời sống là Cộng Đồng’’.
Một bằng chứng cho
tính cách hữu hiệu của thể thao trong sự thực hiện tính khí, là các Dân Tộc yêu
chuộng đến cao độ các môn thể thao đều là những Dân Tộc có nhiều tính khí. Nhiều
môn thể thao cũng là những phương pháp để tập trung tư tưởng trong đó có các
môn võ.
Vượt lên các phương
pháp thể thao đó có những phương pháp vật chất khác, cũng giúp cho cá nhân chế
ngự được cơ thể và dần dần lên đến trình độ chế ngự được tư tưởng. Phép yoga của
Ấn Độ, phép Thiền Định của Phật và Lão Tử, phép tu dưỡng tinh thần của Đạo Hồi
và Đạo Gia Tô, đều nhằm mục đích chế ngự cơ thể để lần lần lên đến mức chế ngự
tự tưởng. Các phép sau này kiến hiệu hơn phương pháp thể thao nói trên rất nhiều,
và chóng đưa con người đến chỗ tự chủ với một trình độ rất cao. Tuy nhiên các
phương pháp này đều không có tính cách tập thể như những phương pháp thể thao.
Mỗi cá nhân dưới sự hướng dẫn của một người được mình tôn kính làm Thầy, cố gắng
tập trung tư tưởng vào một đối tượng để tìm cách chế ngự bản thân. Các phép luyện
thần này đều dựa trên căn bản khổ hạnh.
Tất cả các phép luyện
thần và phương pháp thể thao đều dựa trên căn bản huấn luyện cơ thể và trí óc
làm việc cho đến hết khả năng và cho có quy củ. Vì vậy cho nên hai cách luyện
tính khí trên không có đối chọi nhau, mà ngược lại bổ sung cho nhau.
Giáo dục quần chúng.
Chúng ta đã thấy rằng,
ngay trong những thời kỳ bình thường của Cộng Đồng, nhu cầu của sự lãnh đạo Cộng
Đồng cũng đã đặt thành một vấn đề rất quan trọng, sự đa số chịu lãnh đạo hiểu
biết vấn đề cần phải giải quyết của Cộng Đồng.
Đã như thế thì, ngay trong những thời kỳ bình
thường của Cộng Đồng, việc giáo dục quần chúng đã là một vấn đề trọng hệ.
Tuy nhiên, trong những thời kỳ bình thường như
vậy, chúng ta đã biết sự mâu thuẫn đương nhiên giữa quyền lợi của cá nhân và
quyền lợi của Cộng Đồng, không lên mức độ căng thẳng có thể là một mối đe dọa
cho sự tồn tại của Cộng Đồng. Do đó, sự giáo dục quần chúng mặc dầu rất cần cho
sự thực hiện trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi Cộng Đồng và quyền
lợi cá nhân, vẫn không khẩn thiết như ở những thời kỳ mà Cộng Đồng phải qua các
cơn khủng hoảng.
Ngày nay Cộng Đồng
Dân Tộc Việt Nam đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng vô cùng trầm trọng.
Trong lịch sử của chúng ta, Dân Tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ khủng hoảng
rất là ác liệt, các cuộc ngoại xâm, các cuộc nội chiến tàn sát, chúng ta đều có
trải qua. Nhưng cuộc khủng hoảng lần này nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Nó đã bắt
đầu từ hơn một Thế Kỷ nay và cho đến ngày giờ này chúng ta vẫn chưa giải quyết
được. Chỉ riêng sự kiện thời gian đó, cũng là một yếu tố đủ để chứng minh tính
cách vô cùng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng.
Trong các cuộc khủng
hoảng trước đây, Cộng Đồng của chúng ta bị những sức mạnh vật chất tàn phá kinh
khủng làm chấn động. Tuy nhiên, những sức mạnh đó, mặc dầu đã gây cho Cộng Đồng
Dân Tộc của chúng ta những vết thương mà ảnh hưởng đã kéo dài trong nhiều thế hệ,
vẫn không đủ mãnh lực để động đến những tiêu chuẩn giá trị làm căn bản cho đời
sống của Cộng Đồng. Nhờ đó mà, sau khi cơn bão tố đã qua, Cộng Đồng của chúng
ta vẫn tiếp tục được cuộc tiến hóa trên những căn bản cổ truyền vững chắc.
Trái lại, trong cuộc
khủng hoảng này, ngoài những lực lượng vật chất tàn phá không kém gì những lần
trước, thêm vào những lực lượng tinh thần ghê gớm hơn mười lần, đã tấn công và
đánh phá đến tận gốc rễ tất cả các tiêu chuẩn giá trị của xã hội Việt Nam.
Chính vì lý do sau này mà cuộc khủng hoảng đã kéo dài đến từ hơn một Thế Kỷ
nay. Sau khi những cuộc sóng gió do những lực lượng vật chất gây ra, đã qua rồi,
Cộng Đồng Dân Tộc của chúng ta vẫn chưa tìm lại được trạng thái thăng bằng thiết
yếu cho sự tồn tại và sự tiến hóa của Cộng Đồng: Bởi vì các tiêu chuẩn giá trị
căn bản đã bị mất mà những tiêu chuẩn giá trị mới chưa được thâu nhận.
Xem thế chúng ta ý thức
ngay lý do và mức độ trầm trọng của thời kỳ khủng hoảng này của Cộng Đồng. Cho
đến khi nào chúng ta lập lại được các tiêu chuẩn giá trị, lúc bấy giờ cơn khủng
hoảng mới hết.
Đã như thế thì, sự đa
số chịu lãnh đạo phải hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của Cộng Đồng, không
lúc nào, trong lịch sử của chúng ta, lại thiết yếu như lúc này và vì vậy cho
nên vấn đề giáo dục quần chúng không lúc nào mà cần phải được đặt ra và thực hiện
như trong lúc này.
Thực hiện giáo dục quần
chúng.
Kỹ thuật khoa học
ngày nay đã cung cấp cho chúng ta những phương tiện giáo dục quần chúng hữu hiệu
và mãnh liệt. Theo thứ tự thời gian phát minh, chúng ta có thể kể: Sách báo,
phim ảnh, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình…
Tất cả đều là những dụng
cụ sắc bén trong vấn đề giáo dục quần chúng. Tuy nhiên, một sự giáo dục quần
chúng có quy củ, mặc dầu đương nhiên áp dụng những dụng cụ nói trên, phải lấy sự
tổ chức quần chúng làm một điều kiện tiên quyết.
Tổ chức quần chúng phải
được quan niệm như thế nào, phải được thực hiện ra sao, chúng ta đã phân tích với
nhiều chi tiết trong đoạn trên đây nói về bộ máy quần chúng.
Chú Thích:
1.- T.D. Lisenko By
gaining favor with Stalin, Lisenko gained control of all agricultural science
throughout the country, including all scientific institutions, universities and
laboratories related to biology, genetics and agriculture.
Stalin embraced the
ideas of Lisenko and it wasn t long before he had Serebrovski and Koltsov shot
to death. Vavilov was imprisoned and died of dysentery. Hundreds of other
genuine geneticists and selectionists suffered during the Repression as well
[especially during the year 1937]
http://azer.com/aiweb/categories/magazine/ai131_folder/131_articles/131_genetics_stalin.html
2.- ‘’Thiên hành kiện,
quân tử dĩ tự cường bất tức’’ (luật Trời vận hành một cách cứng rắn, người quân
tử phải dựa vào đấy mà tự sức tranh đấu không ngừng)
(Kết Luận)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét