Hoàng Tứ Duy - Nhân quyền phải đi trước vũ khí cho Việt Nam
Vào đầu tháng này, Thượng Nghị Sĩ John McCain tỏ ý rằng đã đến lúc Hoa
Kỳ nên xem xét lại việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam sau 30 năm
cấm vận. Cuộc đối đầu ngoài biển gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc về
việc Trung Quốc thăm dò dầu khí ngoài khơi bờ biển miền Trung Việt Nam
đã lộ rõ nhiều yếu kém về mặt chiến lược của Hà Nội.
Việc cung
cấp cho Việt Nam những hệ thống hàng hải và bảo vệ vùng ven biển như là
bước đầu — và sau đó là hệ thống radar, máy bay chiến đấu và phụ kiện
cho những thiết bị quân sự Mỹ còn xót lại — sẽ tăng cường khả năng của
Việt Nam và thực chất hóa mối "quan hệ toàn diện" đã được công bố bởi Hà
Nội và Washington vào năm ngoái.
Nhưng trên cả những hệ thống vũ
khí hiện đại, cái mà Việt Nam thực sự cần cho sự an ninh lâu dài là
những giá trị chính trị hiện đại. Chỉ có thể huy động sự đoàn kết dân
tộc và giàu mạnh cần thiết để bảo vệ chủ quyền đất nước trong một xã hội
tự do và cởi mở.
Vấn nạn của giới lãnh đạo Hà Nội là sự lựa chọn
giữa quyền lợi quốc gia và bảo vệ chế độ, thường dẫn tới những hành
động thiếu mạch lạc và mâu thuẫn. Từ những năm thuộc thập niên 1950,
điều đó có nghĩa là mặc nhận những lấn chiếm đất đai của Trung Quốc bất
chấp những tổn hại vê chủ quyền đất nước. Trong những năm gần đây, Hà
Nội đã lấy lòng Trung Quốc bằng cách đàn áp những tiếng nói phê phán
trong nước về sự bành trướng của Trung Quốc.
Những mâu thuẫn cộng sản
Trong thời gian chiến tranh, cộng sản Bắc Việt đã trông cậy rất nhiều
vào viện trợ quân sự từ Trung Quốc. Nhưng sự giúp đỡ của Bắc Kinh cũng
thật là đắt giá. Năm 1958, trong một công hàm ngoại giao, thủ tướng lúc
đó là Phạm Văn Đồng đã ngầm công nhận những đòi hỏi về chủ quyền của Bắc
Kinh đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Rồi năm 1974, Hà Nội đã yên
lặng hoàn toàn khi Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, lúc đó đang
do Miền Nam Việt Nam quản lý.
Sau chiến tranh, Hà Nội ngã về phía
Liên Sô và xâm lăng nước láng giềng Cambodia, gây nên đổ vỡ quan hệ với
Trung Quốc mà cực điểm là cuộc chiến biên giới đẫm máu năm 1979. Nhưng
tới năm 1990, khi mà Liên Sô ngưng viện trợ và các nước Đông Âu xụp đổ
hàng loạt như quân cờ, Hà Nọi lại tái thiết lập quan hệ với Bắc Kinh.
Việc nối lại tình hữu nghị đã được thương thảo trong một cuộc họp bí
mật tại Thành Đô, một tỉnh phía nam Trung Quốc, vào tháng chín năm 1990.
Những thỏa thuận giữa lãnh đạo cao cấp của hai đảng cộng sản cho tới
nay vẫn chưa được công bố. Căn cứ trên những tiết lộ có giới hạn của một
số viên chức đã hồi hưu, những bloggers Việt Nam suy đoán rằng Hà Nội
đã có những nhượng bộ then chốt về biên giới đất liền và biển như là cái
giá phải trả cho việc bình thường hóa quan hệ.
Từ sau Hội nghị
Thành Đô, Hà Nội đã theo sát mô hình "Chủ nghĩa Lenin tư bản" của Bắc
Kinh mà đặc điểm là một nền kinh tế mở nửa chừng dưới một thể chế chính
trị khép kín. Trong khi những người dân Việt bình thường lo lắng về
Trung Quốc dựa trên lịch sử hai ngàn năm chống ngoại xâm phương Bắc, thì
những thành phần cốt cán của đảng lại thủ lợi vì những đầu tư kinh tế
của Trung Quốc cũng như sự nương tựa về mặt ý thức hệ.
Điều này
giải thích tại sao Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh mới đây đã mô
tả việc Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ)
như là một sự bất đồng nhỏ giữa "anh em". Phát biểu tại cuộc đối thoại
quốc phòng Shangri-La ngày 31 tháng năm, Đại Tướng Thanh ngần ngại không
phê bình Bắc Kinh một cách công khai, mặc dù hải quân Trung Quốc đang
sách nhiễu những tầu tuần duyên và tầu đánh cá Việt Nam trong vùng lân
cận của giàn khoan đồ sộ của Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc.
Như là một hành động của sự tôn trọng đối với Bắc Kinh, bộ chính trị
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ngăn cản chuyến đi Mỹ của Bộ Trưởng Ngoại Giao
Phạm Bình Minh trong thời gian diễn ra sự đối đầu trên biển giữa hai
quốc gia. Chỉ sau khi Trung Quốc di dời giàn khoan, Hà Nội mới cử một
lãnh đạo cấp cao của đảng đi Mỹ, mặc dầu điều đáng ngạc nhiên là người
này không phải là bộ trưởng ngoại giao được xem là thân thiện với Hoa
Kỳ.
Cũng không rõ ràng là tại sao Việt Nam vẫn còn chưa tiến hành
một hành động pháp lý tại Liên Hiệp Quốc, giống như Phi Luật Tân đã làm
trong việc tranh chấp về biển đảo với Trung Quốc. Mặc dù theo hầu hết
các nhà quan sát quốc tế, Việt Nam chiếm ưu thế đối với Trung Quốc, nội
bộ Hà Nội lại có nhiều mâu thuẫn trong việc có nên quốc tế hóa sự tranh
chấp hay không. Kết quả là Trung Quốc vẫn còn có thể định nghĩa cuộc
tranh chấp là song phương và có lợi thế nước lớn trong tương tác một đối
một.
Cho tới khi lãnh đạo đương thời Hà Nội có ý chí thoát khỏi
ảnh hưởng Trung Quốc, việc tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí của Hoa Kỳ sẽ
không giải quyết sự yếu kém của Việt Nam, sự yếu kém về chính trị chứ
không phải là quân sự.
Lộ đồ nhân quyền
Thượng Nghị Sĩ
McCain đã đúng khi gắn liền viện trợ quân sự với nhân quyền: "Chúng ta
có thể làm nhiều tới đâu về vấn đề này, cũng như với những mục tiêu
thương mại và an ninh đầy tham vọng, tùy thuộc rất nhiều vào những hành
động thêm nữa của Việt Nam về nhân quyền."
Đúng vậy, bây giờ
chính là thời điểm mà Hoa Kỳ xác định những điều kiện cụ thể và hợp lý
để tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí. Qua việc nhấn mạnh những điều kiện mà
tối hậu sẽ củng cố sự an ninh của Việt Nam, các nhà hoạch định chính
sách của Hoa Kỳ có thể nâng cấp quan hệ đôi bên lên một mức cao hơn.
Điều kiện trước nhất là phải thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính
trị. Thật là nghịch lý khi Hà Nội vừa thúc đẩy Hoa Kỳ phải có lập trường
mạnh mẽ hơn về vấn đề Biển Đông, đồng thời lại tiếp tục bắt giữ những
công dân Việt Nam lên tiếng một cách ôn hòa chống lại sự xâm lăng của
Trung Quốc.
Điều kiện thứ hai là phải hủy bỏ những điều khoản mơ
hồ về an ninh quốc gia, được sử dụng một cách có hệ thống để hình sự hóa
tự do ngôn luận và những hành động chính trị ôn hòa. Cho tới khi nào
nhà cầm quyền Việt Nam còn coi việc viết blog hay cổ vũ cho dân chủ là
một đe dọa đối với an ninh quốc gia, họ không thể nào tập trung một cách
đúng mức vào mối đe dọa sống chết từ một Trung Quốc ngày một hung hăng.
Điều kiện thứ ba là nhiệm vụ của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐND) chỉ
tập trung vào một mục tiêu duy nhất là phòng thủ ngoại xâm. Hiện này
nhiệm vụ của QĐND gồm ba mục tiêu: bảo vệ chế độ, phòng thủ ngoại xâm,
phát triển kinh tế. Vũ khí từ Hoa Kỳ không bao giờ nên giao cho một quân
đội sẵn sàng đàn áp những bất đồng ý kiến nhân danh an ninh nội tại.
Thách thức ngoại giao
Một cuộc thăm dò ý kiến do BBC Tiếng Việt thực hiện vào tháng bảy đã
hỏi thính giả của đài là muốn Việt Nam làm đồng minh của quốc nào. Hoa
Kỳ là nước mà 87% những người trả lời đã chọn, trong khi chỉ có 1% chọn
Trung Quốc.
Kết quả của cuộc thăm dò đã xác nhận sự nhận xét của
hầu hết những người theo dõi về tình hình Việt Nam: Người dân Việt Nam
muốn có quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ và khoảng cách ngoại giao với
Trung Quốc xa hơn. Đáng buồn thay, kết quả thăm dò cũng nói lên một thực
tế khắc nghiệt khác: đa số công dân Việt Nam hiện thời không có tiếng
nói trong những vấn đề quốc gia dưới chế độ độc tài hiện tại.
Vần
đề cung cấp vũ khí sát thương cho Việt Nam có lẽ sẽ được chính quyền
Obama và Quốc Hội xem xét trong tương lai gần. Lo lắng về sự trỗi dậy
của Trung Quốc, một số nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ có thể có quan
điểm là việc cấm vận vũ khí là trở ngại chính cho quan hệ gần gũi hơn
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Nhưng vũ khí của Hoa Kỳ sẽ không làm cho
Việt Nam mạnh hơn cũng như không khiến cho quan hệ chiến lược giữa hai
nước sâu hơn. Cuộc tranh luận sắp tới cũng nên được hướng dẫn bởi sự
đánh giá đúng mức cái gì làm tăng cường sức mạnh cho nước Việt Nam và
người dân Việt Nam. Đó là sự cải thiện nhân quyền và gia tăng tự do dân
sự.
Hoàng Tứ Duy
Bài Asia Times (tiếng Anh): http://www.atimes.com/ati…/Southeast_Asia/SEA-01-200814.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét