Nguyễn Văn Bông
PHẦN THỨ HAI: THẾ GIỚI CHÍNH TRỊ HIỆN ĐẠI
THIÊN THỨ NHẤT: NHỮNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỔ ĐIỂN
CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ HOA KỲ
HIỆP CHÚNG QUỐC MỸ là một trong những
quốc gia đầu tiên áp dụng chế độ Tổng thống và cũng là nơi mà Hiến pháp
duy trì được một cuộc sinh hoạt chính trị ổn định.
Với tất cả tài nguyên và nhân lực của
tân đại lục, với một tinh thần dân chủ thực sự cùng một chế độ chính trị
vững chắc, Hoa Kỳ đã vượt khỏi những biến chuyển của thời đại và trở
thành một quốc gia dân chủ và hùng mạnh nhất thế giới ngày nay.
Để có một cái nhìn thực tế, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu chế độ Hoa Kỳ qua hai mục: khung cảnh pháp lí và thực tại chính trị.
Mục I: KHUNG CẢNH PHÁP LÍ
Đoạn 1: MỘT QUỐC GIA LIÊN BANG
A. Tiểu bang và quốc gia Liên bang
Hoa Kỳ là một quốc gia Liên bang và
có thể nói rằng một trong những quốc gia đầu tiên áp dụng chế độ Liên
bang. Chế độ Liên bang có thể định nghĩa là một cơ cấu chính quyền trong
ấy quyền lực và chủ quyền được phân chia giữa chính quyền trung ương và
các đơn vị địa phương. Quốc gia Liên bang là một quốc gia bao gồm nhiều
quốc gia nhỏ gọi là Tiểu bang.
Thực vậy, chính từ năm 1787, Hoa Kỳ là
một quốc gia gồm 13 Tiểu bang, 13 thuộc địa Anh Quốc vừa thâu hồi độc
lập. Và ngày nay Hoa Kỳ bao gồm 50 Tiểu bang. Chế độ Liên bang Hoa Kỳ có
những đặc điểm sau đây:
1. Trên phương diện quốc tế,
các Tiểu bang không có chủ quyền đối ngoại, nghĩa là không một Tiểu bang
nào có quyền cử cũng như có đại diện ngoại giao, có quyền kí kết Hiệp
ước Quốc tế. Giữa các Tiểu bang với nhau, cũng không có sự bang giao
được xem như bang giao quốc tế. Tóm lại, chính quốc gia Liên bang mới
được coi là một đơn vị trong cộng đồng quốc tế và đại diện cho tất cả
Tiểu bang trong mọi liên lạc ngoại giao.
2. Trên phương diện quốc nội,
trái lại, giữa Liên bang và Tiểu bang có sự phân chia thẩm quyền tế nhị
và các Tiểu bang có một sự tự trị về chính trị lẫn hành chính khá quan
trọng. Cần phải nhận định ngay rằng, trong một chế độ Liên bang người ta
nhìn thấy có một sự chồng chất lên nhau hay một sự sống với nhau của
hai trật tự pháp lí, hai hệ thống pháp lí cùng một không gian và chung cho một số người.
Thật vậy, bất cứ một công dân Hoa Kỳ
nào, bất cứ một lãnh thổ Hoa Kỳ nào cũng bị chi phối bởi Hiến pháp, pháp
luật, hành chính, công lí của quốc gia Liên bang và đồng thời bởi Hiến
pháp, pháp luật, hành chính, công lí của Tiểu bang.
Phân chia thẩm quyền giữa quốc gia Liên
bang và Tiểu bang thường được ấn định trong Hiến pháp Liên bang. Nguyên
tắc là tất cả những vấn đề nào không được ghi trong bản Hiến pháp và
được xem là thuộc thẩm quyền Liên bang, đều thuộc thẩm quyền các Tiểu
bang.
Mặc dù nguyên tắc là thế nhưng với sự
đòi hỏi của tình thế và nhất là với sự giải thích rộng rãi của án lệ Hoa
Kỳ, thẩm quyền của cơ quan Trung ương Liên bang càng ngày càng được
tăng cường và khuynh hướng tập trung quyền lực này được thể hiện qua sự
can thiệp của Chính phủ Liên bang vào nhiều lĩnh vực, trên nguyên tắc
thuộc thẩm quyền các Tiểu bang như: quy định thể lệ thương mại giữa các
Tiểu bang, ấn định sắc thuế Liên bang đánh vào các Tiểu bang, v.v… Gần
đây vụ án Little Rock làm chấn động dư luận Quốc tế, khi Chính phủ Liên
bang phái quân đội đến bảo vệ cho một học sinh da đen được tiếp tục theo
học tại một trường da trắng tại một Tiểu bang nổi tiếng kỳ thị đã chứng
tỏ sự can thiệp của Chính phủ Liên bang đối với Chính quyền Tiểu bang
mỗi ngày một rõ rệt hơn.
Tuy nhiên, không nên quên rằng thẩm
quyền các Tiểu bang vẫn còn nhiều và rất rộng rãi. Mỗi Tiểu bang có
riêng Hiến pháp, Quốc hội và Tòa án. Hành pháp giao phó cho một Thống
đốc do dân cử. Tất cả những vấn đề quan trọng như giáo dục, y tế, quyền
cảnh sát đều thuộc thẩm quyền Tiểu bang miễn là những quyết định của
Tiểu bang, như trên đã nói, không được trái với Hiến pháp Liên bang.
Tóm lại, chế độ Liên bang là một giải
pháp dung hòa hai hệ thống giá trị chống đối nhau nhưng đều được ưa
chuộng như nhau: một giá trị địa phương và một giá trị trung ương. Giá
trị trung ương tức là tính cách thống nhất của quốc gia được biểu dương
bởi cơ quan trung ương, chung cho tất cả Tiểu bang và trên hết
tất cả Tiểu bang. Giá trị địa phương tức là sự tự trị về nếp sống tinh
thần cũng như về phương cách tổ chức của mỗi Tiểu bang.
B. Chế độ Liên bang và định chế chính trị
Chế độ Liên bang không thể không ảnh
hưởng nhất định đến định chế chính trị. Như ta đã nói, chế độ Liên bang
là một giải pháp dung hòa hai giá trị, giải pháp dung hòa này được thể
hiện qua các định chế của Liên bang. Và mối tương quan giữa chế độ Liên
bang Hoa Kỳ và định chế chính trị có những đặc điểm sau đây:
1. Quốc hội lưỡng viện
Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ phản ảnh sự
dung hòa giữa tính cách thuần nhất và bất thuần nhất của Liên bang. Để
thuyết phục một số Tiểu bang ngần ngại gia nhập vào Liên bang và đồng
thời vẫn giữ tính cách thống nhất của Liên bang nhà lập hiến Hoa Kỳ ấn
định một Quốc hội lưỡng viện: một Viện đại diện toàn thể công dân của
Liên bang và một Viện đại diện các Tiểu bang. Giải pháp này là hậu quả
của một sự dàn xếp chính trị và là một đặc điểm của chế độ Liên bang.
2. Tổng thống Phủ
Tổng thống Phủ là một đặc điểm của tổ
chức chính quyền Mỹ Quốc. Trước năm 1787, khi chính phủ Liên bang ra
đời, hình thể quốc gia cũ là một hình thể Bang liên. Với hình thể này,
các quốc gia kết hợp lại do một hiệp định quốc tế và các quốc gia trong
tổ chức Bang liên vẫn giữ tư cách quốc gia trên phương diện quốc tế.
Kinh nghiệm cho biết rằng hình thể này rất rời rạc, yếu ớt không đáp ứng
với nhu cầu tình thế vì thiếu một cơ quan chỉ huy Hành pháp duy nhất có
uy thế.
3. Kiểm soát hiến tính của các đạo luật
Như chúng ta đã thấy, trong chế độ Liên
bang có sự hiện diện của hai trật tự pháp lí chồng chất lên nhau và cùng
chung sống với nhau. Sự kiện này phát sinh ra nhiều trường hợp xung đột
pháp lí một mặt giữa chính quyền trung ương và Chính phủ địa phương và
mặt khác giữa những chính quyền địa phương với nhau.
Để giải quyết các xung đột này bởi những
giải pháp pháp lí và đồng thời để thống nhất luật lệ trong Liên bang,
một hệ thống tòa án toàn quyền giải thích Hiến pháp là một điều tối cần.
Đoạn 2: MỘT HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH
A. Ưu thế của Hiến pháp
Như chúng ta đã có dịp nhận xét khi bàn về Hiến pháp nói đến Hiến pháp cương tính là xác nhận rằng Hiến pháp có ưu thế trong
hệ thống luật pháp của quốc gia. Và tính cách ưu thế này đưa đến một
hậu quả quan trọng: Hiến pháp cương tính là một Hiến pháp khó sửa đổi.
Hay nói một cách khác, thủ tục sửa đổi Hiến pháp là một thủ tục long
trọng với những điều kiện chặt chẽ, đặc biệt. Đó là tình trạng của Hoa
Kỳ.
Thật vậy, ở Mỹ, một đạo luật thường là
một văn kiện được biểu quyết, với một đa số tương đối, bởi Thượng và Hạ
Nghị viện Liên bang: văn kiện này, được phê chuẩn, và ban hành bởi Tổng
thống, trở thành một đạo luật.
Thủ tục mà chúng ta vừa thấy đó không áp
dụng cho công việc sửa đổi Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp tại Hoa Kỳ, đòi
hỏi hai điều kiện và đồng thời là hai hành vi quan trọng: một tu chính án Hiến pháp, một sự phê chuẩn tu chính ấy.
Tu chính Hiến pháp – tức là sửa đổi Hiến pháp, phải được Thượng và Hạ Nghị viện Hoa Kỳ biểu quyết – và trong mỗi Viện – phải đa số 2/3.
Một khi Quốc hội Liên bang – tức Thượng
và Hạ Nghị viện biểu quyết tu chính Hiến pháp, mỗi viện với đa số 2/3
rồi, tu chính này cần phải được phê chuẩn. Phê chuẩn tức là chấp thuận.
Ai chấp thuận? Tu chính này cần phải được ¾ các Quốc hội các Tiểu bang
chấp thuận, nghĩa là hiện giờ, 38 Tiểu bang. Như thế, biểu quyết một tu
chính Hiến pháp nghĩa là một Hiến luật đòi hỏi những điều kiện khó khăn
nhiều hơn một đạo luật thường. Ưu thế của Hiến pháp là ở chỗ đó.
Từ ngày Hiến pháp Hoa Kỳ được thiết lập – tức là từ năm 1787 đến nay, tổng cộng có hết thảy là 22 tu chính Hiến pháp[1].
Tu chính án thứ 22 – tức là tu chính án chót, được biểu quyết năm 1951.
Nội dung của nó quy định Tổng thống chỉ có thể tái cử một lần.
Tu chính án này – để nhắc lại sự khó
khăn của một tu chính án – được Quốc hội Liên bang biểu quyết năm 1947
và mãi đến 1951 mới được ¾ các Tiểu bang phê chuẩn.
B. Kiểm soát hiến tính các đạo luật
1. Một Hiến pháp cương tính không những
có nghĩa là một văn kiện có tính cách ưu thế mà còn có ý nghĩa là những
đạo luật thường không thể đi ngược lại tinh thần cùng nội dung của bản
Hiến pháp. Một đạo luật đi ngược lại Hiến pháp tức là một đạo luật bất
hợp hiến. Mà bất hợp hiến là bất hợp pháp.
Vấn đề kiểm soát hiến tính của các đạo
luật là một hậu quả tất nhiên của một Hiến pháp cương tính, vì nếu không
đặt vấn đề kiểm soát và không phương tiện kiểm soát thì ưu thế Hiến
pháp không còn nữa và một đạo luật thường có thể thay đổi Hiến pháp.
Tại Hoa Kỳ vấn đề kiểm soát hiến tính
của các đạo luật được đặt ra với tất cả hậu quả thực tiễn của nó. Thực
ra, vấn đề này không được nhà Lập hiến năm 1787 quy định. Mãi đến năm
1803, chính Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, trong vụ án nổi tiếng Marbury
chống Madison mới đặt một nguyên tắc căn bản: Pháp viện có quyền và
nhiệm vụ từ chối áp dụng một đạo luật tỏ ra đi ngược lại một điều khoản
của Hiến pháp một cách rõ rệt. Tác giả của quyết nghị nổi tiếng đó là
ông John Marshall, Chánh án Tối cao Pháp viện trong thời gian 1801-1835.
2. Cần phải nhắc lại rằng, “quyền kiểm
pháp” tại Hoa Kỳ không có nghĩa là quyền của các tòa án hủy bỏ một cách
trực tiếp đạo luật được xem là phản hiến. Không phải thế, Pháp viện Hoa
Kỳ chỉ có quyền từ chối không áp dụng và không bắt dân chúng phải tuân
theo, một đạo luật đương tranh chấp trong một vụ kiện được đệ lên Pháp
viện nếu xét ra đạo luật này vi phạm một điều khoản của Hiến pháp. Ví
dụ: nhân một vụ kiện trước Tòa: một bên xin áp dụng một đạo luật. Bên
kia xin Tòa không áp dụng đạo luật đó viện lẽ là tính cách bất hợp hiến
của nó. Tòa án, trong trường hợp này, trước khi phán quyết về nội dung
vụ kiện, phải xem trước coi đạo luật đương tranh chấp đó có hợp hiến
không. Nếu có, đạo luật sẽ được áp dụng để xét xử. Nếu không, Tòa tuyên
bố không áp dụng đạo luật đó. Đạo luật bất hợp hiến này không bị hủy bỏ,
vẫn còn tồn tại, nhưng không được áp dụng trong vụ kiện này.
Tuy nhiên, hậu quả của việc tuyên bố
không áp dụng không kém gì việc tiêu hủy. Vì, mặc dù còn tồn tại, đạo
luật được xem là bất hợp hiến đó – nhất là khi bị Tối cao Pháp viện
tuyên bố, như thế – sẽ không có giá trị nào nữa, bởi lẽ giản dị là các
Tòa án khác sẽ không áp dụng đạo luật đó.
Đoạn 3: MỘT CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG
Chế độ Hoa Kỳ là một chế độ Tổng thống.
Xin nhắc lại Tổng thống chế không có nghĩa là chế độ trong ấy có một
Tổng thống. Cũng như Nghị viện chế không có nghĩa là chế độ trong ấy có
một Nghị viện. Như chúng ta đã thấy khi đề cập đến Tổng thống chế, đặc
tính của chế độ này là: một sự độc lập của Hành pháp, một sự độc lập của
Lập pháp và một sự phân quyền rõ rệt giữa hai cơ quan.
Sở dĩ danh từ Tổng thống được gán cho
chế độ này là vì Tổng thống là vị chỉ huy Hành pháp do dân bầu lên qua
một cuộc phổ thông đầu phiếu và Tổng thống và các cộng sự viên của ông
không chịu trách nhiệm chính trị trước Quốc hội.
Để có một ý niệm rõ rệt về chế độ Tổng
thống Hoa Kỳ, chúng ta sẽ lần lượt trình bày 3 cơ quan công quyền chính,
đó là: Tổng thống, Quốc hội, Tối cao Pháp viện.
A. Tổng thống
1. Thể thức bầu cử và điều kiện ứng cử Tổng thống
a. Thể thức bầu cử
Chiểu theo Hiến pháp, Tổng thống Hoa Kỳ do toàn dân bầu lên, nhưng theo lối đầu phiếu gián tiếp.
Nhà lập hiến năm 1878 sợ rằng, nếu được bầu bởi một cuộc phổ thông đầu
phiếu trực tiếp, Tổng thống, với một sự tấn phong của toàn dân như thế,
sẽ có nhiều uy tín, dễ lấn áp Quốc hội và có khuynh hướng đi đến độc
tài. Tuy nhiên, với sự tiến triển của cuộc sinh hoạt chính trị, mặc dù
vẫn áp dụng thể thức gián tiếp, ngày nay trong thực tế, Tổng thống Hoa
Kỳ được xem là do chính quốc dân bầu thẳng.
Thực vậy, trên nguyên tắc, cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ diễn ra qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: đề cử ứng
cử viên ra tranh cử Tổng thống. Giai đoạn này là giai đoạn của chính
đảng và cũng là giai đoạn tối quan trọng trong cuộc vận động tuyển cử.
Các chính đảng họp Đại hội toàn quốc để chỉ định ứng cử viên của mình.
Kinh nghiệm cho biết rằng, vận động để được chính đảng đề cử lắm lúc còn
khó hơn là vận động để được đắc cử trong nhân dân. (Kennedy và
Stevenson)
- Giai đoạn thứ nhì: đến ngày thứ hai, tuần thứ hai tháng mười một năm tuyển cử, cử tri toàn quốc bầu những cử tri đệ nhị cấp,
cử tri để bầu Tổng thống. Mỗi Tiểu bang sẽ bầu một số cử tri đệ nhị cấp
tương đương với số dân biểu ở Thượng và Hạ Nghị viện mà họ có.
- Giai đoạn thứ ba: đến ngày
thứ hai, tuần thứ ba tháng giêng, các cử tri đệ nhị cấp họp lại để bầu
Tổng thống. Chính giai đoạn thứ ba này, trên phương diện pháp lí, mới là
quan trọng, vì Tổng thống được chính thức bầu từ ngày này. Nhưng trong
thực tế, giai đoạn này chỉ còn có tính cách hình thức mà thôi. Vì, khi
mà cử tri đệ nhị cấp được bầu rồi nghĩa là ở giai đoạn thứ nhì, chỉ cần
xem có bao nhiêu cử tri đệ nhị cấp thuộc Đảng Dân chủ hay Cộng hòa là
biết ngay ai sẽ đắc cử Tổng thống. Vì mỗi cử tri đệ nhị cấp cam kết rằng sẽ bỏ phiếu cho ứng cử viên của đảng mình.
Bởi thế, sau khi giai đoạn thứ nhì kết liễu, báo chí đăng tít to lớn
kết quả cuộc bầu cử Tổng thống mặc dù kết quả này chỉ có được vài tháng
sau.
Tóm lại, trong thực tế Tổng thống Hoa Kỳ
có thể nói rằng được bầu cử bởi toàn dân qua cuộc phổ thông đầu phiếu
trực tiếp. Tuy nhiên có hai trường hợp mà Tổng thống không thể được xem
là do đa số công dân bầu lên.
- Trường hợp thứ nhất: không có
ứng cử viên nào chiếm đa số tuyệt đối trong cử tri đoàn đệ nhị cấp. Và
đa số này là 279 phiếu. Trong trường hợp này Hiến pháp trù liệu rằng Hạ
Nghị viện Liên bang chọn Tổng thống trong số ba ứng cử viên được nhiều
phiếu nhất. Trong lịch sử Hoa Kỳ đã xẩy ra một lần với việc bầu Tổng
thống John Quincy Adam năm 1824. Trường hợp này thiếu chút nữa cũng đã
xảy ra trong cuộc bầu cử 1968 vừa qua. Thực vậy, đến gần phút chót, khi
chỉ còn ba Tiểu bang, ông Nixon mới được 261 phiếu cử tri đoàn, trong
khi ứng viên thứ hai, ông Humphrey chỉ được 191 thăm. Nếu ông Humphrey
hay Wallace thắng tại ba Tiểu bang này thì cả ba ứng viên không ai đủ đa
số tuyệt đối thăm cử tri đoàn. Cuối cùng ông Nixon đã thắng tại cả ba
Tiểu bang chót và đắc cử Tổng thống với số phiếu 283 cử tri đoàn.
- Trường hợp thứ hai Tổng thống
đắc cử với đa số cử tri đệ nhị cấp nhưng đồng thời có thiểu số phiếu
trong nhân dân. Trường hợp này đã xảy ra hai lần, năm 1876
(Tilden-Hayes) và 1888 (Harrison-Cleveland).
b. Điều kiện ứng cử
Ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ, để có quyền ra tranh cử phải hội đủ ba điều kiện sau đây:
- Ít nhất 35 tuổi
- Có quốc tịch Hoa Kỳ
- Đã sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ ít nhất 14 năm.
Nhiệm kì của Tổng thống là 4 năm. Trước
năm 1951, Tổng thống có thể được tái cử vĩnh viễn. Nhưng Tổng thống
Washington đã từ chối ra tranh cử lần thứ ba, quyết định này đã trở
thành một tập tục mà các Tổng thống kế tiếp noi theo. Cho đến khi Tổng
thống Roosevelt được đắc cử, Roosevelt không tôn trọng tập tục kể trên
và ông được tái cử lần thứ ba năm 1940, và lần thứ tư năm 1944. Để tránh
tình trạng một người giữ chức Tổng thống quá lâu – vì có thể trở thành
một nhà độc tài – một tu chính án thứ 22 được Quốc hội Liên bang Hoa Kỳ
biểu quyết năm 1947 và được đa số Tiểu bang phê chuẩn năm 1951, tu chánh
án quy định rằng Tổng thống chỉ được tái cử một lần. Tập tục mà
Washington là tác giả đã thành một hiến luật.
Đó là thể thức bầu cử cùng điều kiện ứng cử Tổng thống. Trước khi chấm dứt điểm này, cần phải có vài lời về Phó Tổng thống. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định rằng Phó Tổng thống được bầu một lần với Tổng thống và chung một danh sách.
Vai trò chính của Phó Tổng thống là thay
thế Tổng thống trong trường hợp bất ngờ mà Tổng thống lâm bệnh, mệnh
chung hay là từ chức, nghĩa là trường hợp mà nhiệm vụ của Tổng thống
chấm dứt trước nhiệm kì 4 năm.
Phó Tổng thống không có chức vụ gì khác
ngoài việc chủ tọa Thượng Nghị viện Liên bang. Tuy nhiên, như đã nói, vì
một lí do gì mà Tổng thống rời bỏ nhiệm vụ, Phó Tổng thống đương nhiên
trở thành Tổng thống. Và kinh nghiệm cho thấy rằng chức vụ Phó Tổng
thống có một tầm quan trọng khá đặc biệt. Trường hợp thứ nhất, năm 1944,
Tổng thống Roosevelt mệnh chung vài tuần lễ sau khi ông đắc cử lần thứ
tư, một chính trị gia không tên tuổi thời ấy, Phó Tổng thống Truman thay
ông, đảm nhiệm chức vụ này và điều khiển chiến tranh và đã lấy một
quyết định lịch sử là dùng bom nguyên tử chống Nhật Bản. Trường hợp thứ
hai, Phó Tổng thống Johnson năm 1964 thay thế Tổng thống Kennedy.
2. Nhiệm vụ của Tổng thống Mỹ
a. Tổng thống, trước hết là vị Quốc trưởng.
Đây là một đặc điểm của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ. Tổng thống Phủ là cơ
quan Hành pháp hợp nhất hai nhiệm vụ của hai người trong một chức vụ.
Như các bạn cũng đã biết, trong nhiều quốc gia và thường thường, có hai
nhân vật phân chia nhiệm vụ Hành pháp: một nhà vua hoặc một vị Chủ tịch
giữ địa vị nguyên thủ quốc gia tượng trưng cho quốc gia và vị Thủ tướng
nắm thực sự chính quyền. Tại Mỹ, trái lại, Tổng thống vừa là chỉ huy
Hành pháp và là nguyên thủ tượng trưng.
Với nhiệm vụ thứ nhất này – nhiệm vụ của
một Quốc trưởng – Tổng thống Mỹ phải dành nhiều thì giờ cho những cuộc
tiếp tân, đón tiếp thượng khách, các phái đoàn công dân Mỹ từ các miền
trong xứ đến yết kiến Tổng thống, tuyên cáo với quốc dân… Tóm lại, chiểu
theo Hiến pháp Mỹ, có một sự phối hợp cương vị với quyền hành Thủ tướng
trong một chức vụ dân cử.
b. Tổng thống là vị chỉ huy Hành pháp.
Chính Hiến pháp chỉ định Tổng thống có bổn phận chăm lo cho luật pháp
quốc gia được thi hành đúng đắn và trung thành. Chỉ huy Hành pháp, Tổng
thống kiểm soát, đôn đốc hoạt động hằng ngày và thường xuyên của hằng
triệu công chức trong chính phủ quốc gia. Tổng thống có bổn phận, soạn
thảo ngân sách, ấn định luật lệ cho các công sở và – một cách tổng quát –
khuyến khích, đôn đốc để bộ máy hành chính được hữu hiệu liêm khiết.
c. Nhiệm vụ thứ ba của Tổng thống là Tổng Tư lệnh Quân
lực. Trong thời bình cũng như trong thời chiến, Tổng thống là vị Tổng
Tư lệnh Tối cao Quân lực. Nhiệm vụ này là một trong những hậu quả quan
trọng và đồng thời cũng là một sự bảo đảm cho niềm tin của dân Mỹ, của nguyên tắc quyền dân sự đứng trên quyền quân sự.
Trong thời bình, Tổng thống coi sóc việc
huấn luyện kiểm soát cũng như tuyển mộ và cấp đẳng tất cả các lực lượng
quân sự. Với sự trợ lực của Bộ trưởng Quốc phòng, các vị Tham mưu
Trưởng Hỗn hợp và Hội đồng An ninh Quốc gia, Tổng thống luôn luôn quan
tâm đến nền anh ninh Quốc gia và nhất là nhiệm vụ tối quan trọng là luôn
luôn chuẩn bị để kịp thời ứng phó với mọi cuộc tấn công của quân thù.
Trong thời chiến, quyền hành của Tổng
thống về quân sự còn quan trọng hơn nữa. Với tư cách Tổng Tư lệnh Tối
cao, Tổng thống là vị độc nhất phê chuẩn tất cả các quyết định tế nhị và
lớn lao về chiến lược cũng như về chiến thuật.
d. Nhiệm vụ thứ tư: Một nhà ngoại giao tối cao của Mỹ Quốc
Cần phải nhận định rằng quyền hành liên
hệ đến lãnh vực ngoại giao – chiểu theo Hiến pháp – được giao phó cho
Tổng thống và Quốc hội, nhất là Thượng Nghị viện Hoa Kỳ – trong việc
chấp nhận hiệp ước và bổ nhiệm ngoại giao. Tuy nhiên thực tế đã đưa đến
tình trạng là Tổng thống lãnh đạo quyền ngoại giao này. Vì trong lúc mà
Quốc hội là diễn đàn công cộng của những quyền lợi và quan điểm chống
đối nhau, chính Tổng thống Phủ mới là nơi mà sự bí mật, mau lẹ cũng như
sự thống nhất và liên tục đảm bảo chắc chắn cho một chính sách ngoại
giao thắng lợi.
Một nhà ngoại giao, một vị Tổng Tư lệnh
Quân lực, một Thủ tướng và một Quốc trưởng, các nhiệm vụ quan trọng này
tập trung trong tay Tổng thống. Và Tổng thống sử dụng quyền hạn và thi
hành nghĩa vụ của mình một cách hoàn toàn độc lập. Như thế có nghĩa là
không có vấn đề lật đổ chính phủ, không có vấn đề bất tín nhiệm Tổng
thống bởi Quốc hội. Tổng thống và các Bộ trưởng – cộng sự viên do ông
chọn lựa và trách nhiệm với ông – thi hành nhiệm vụ một cách độc lập và
vô trách nhiệm.
3. Tổng thống và Quốc hội
Tổng thống độc lập với Quốc hội. Nhưng
Tổng thống không thể làm tròn nhiệm vụ nếu không có sự đồng ý của Quốc
hội. Mối tương quan giữa Tổng thống và Quốc hội đặt trên nhiều lĩnh vực
và Hiến pháp Hoa Kỳ cũng có trù liệu biện pháp để điều hòa mối tương
quan giữa hai cơ quan công quyền này.
a. Cũng như Tổng thống, Quốc hội cũng rất hãnh diện là một Quốc hội hoàn toàn độc lập. Quốc hội Hoa Kỳ là một trong số ít Quốc hội trên thế giới mà quyền Hành pháp không thể giải tán được bất cứ vì lí do nào.
b. Tổng thống đối với Quốc hội, có quyền phủ quyết. Trong
trường hợp mà Quốc hội thông qua một dự luật mà Tổng thống cho rằng
không được sáng suốt, không thực tế hoặc không hợp hiến, Tổng thống có
quyền gửi trở lại Quốc hội mà không kí ban hành. Quốc hội bắt buộc phải
phải tái xét dự luật đã được biểu quyết hoặc theo quan điểm của Tổng
thống, hoặc vẫn cố giữ quan điểm của mình nhưng trong trường hợp này
phải có đa số 2/3.
c. Tổng thống không có sáng quyền lập pháp cũng
như không quyền đề nghị ngân sách. Nhưng thực tế đã đưa đến tình trạng
là chính cơ quan Hành pháp mới đủ phương tiện và đủ thẩm quyền để đề
nghị những đạo luật xét ra cần thiết và thích nghi, và nhất là về phương
diện tài chính. Để tránh nguyên tắc cứng rắn này – và đồng thời vẫn
tôn trọng Hiến pháp – thường thường Tổng thống nhờ một vị dân biểu của
đảng mình đề nghị dự án luật hay ngân sách mà chính Tổng thống đã soạn
thảo.
d. Vẫn biết rằng Tổng thống hoàn toàn độc lập, nhưng hành động của ông cũng bị kiểm soát bởi Quốc hội trong ba lãnh vực:
- Tất cả những sự bổ nhiệm công chức Liên bang và nhất là các vị Bộ trưởng phải được Thượng Nghị viện Hoa Kỳ chấp thuận.
- Không có một hiệp ước quốc tế nào có hiệu lực nếu không được Thượng Nghị viện phê chuẩn.
- Quốc hội có khuynh hướng tăng cường
con số thẩm quyền của các ủy ban và trong thực tế, cho gọi nhân viên
Hành pháp đến chất vấn – xuyên qua các cuộc đối thoại ấy, Quốc hội kiểm
soát chặt chẽ hoạt động của Hành pháp.
B. Quốc hội
Một Giáo sư đã viết như thế này khi đề cập đến Quốc hội:
“Theo Hiến pháp Mỹ, Quốc hội Hoa Kỳ phải
nhóm họp ít nhất mỗi năm một lần, bắt đầu từ trưa ngày mồng 3 tháng
Giêng nếu các nghị sĩ không ấn định một ngày nào khác. Trong phiên họp
khai mạc, sẽ có cầu kinh, các nghi thức tôn nghiêm được cử hành, các vị
tân nghị sĩ tuyên thệ, các ủy ban và các trưởng ban được tuyển chọn và
người ta chuẩn bị để nghênh đón trang trọng Tổng thống tới đọc bài diễn
văn hàng năm về Tình trạng Liên bang. Sau khi những thể thức trên được
cử hành một cách đoan trang, 537 vị nghị sĩ bắt đầu nhóm họp liên tục,
cho tới tháng 8 và đôi khi tới tháng 9”.
1. Vị trí và cơ cấu của Quốc hội
Một số sự kiện làm nổi bật tầm quan
trọng của Quốc hội và phân biệt rõ cơ quan Lập pháp Hoa Kỳ với mọi cơ
quan Lập pháp khác trên thế giới.
a. Sự kiện thứ nhất: Quốc hội
chỉ là một trong ba ngành chính quyền đồng đều và độc lập. Quốc hội làm
luật, Tổng thống thi hành luật và Tối Cao Pháp viện giải thích luật và
bắt công dân tuân theo. Giữa ba ngành này, có những mối giây liên hệ
nhưng mỗi ngành có quyền hạn riêng biệt và phương tiện riêng để tự vệ
khi có sự xung đột với các ngành khác. Thật vậy, các nghị sĩ có thể biểu
quyết một luật pháp mà họ muốn. Tuy nhiên nếu luật lệ đó thiếu thực tế
và khôn ngoan, họ sẽ không ngạc nhiên khi thấy Tổng thống từ khước ban
hành với quyền phủ quyết. Và nếu đạo luật đó có tính cách phản hiến, thì
họ càng không ngạc nhiên khi thấy Tối cao Pháp viện phản đối, không áp
dụng và không chịu để cho dân chúng tuân theo. Quốc hội là đại diện của
nhân dân thật nhưng quyền lực của Quốc hội không phải hoàn toàn độc
đoán.
b. Sự kiện thứ nhì: Quốc hội
Hoa Kỳ là một Quốc hội trong một hệ thống Liên bang. Như chúng ta đã
biết, người dân Mỹ sống dưới nhiều đạo luật do các Nghị viện khác đặt ra
mà Quốc hội không có quyền kiểm soát. Mỗi Tiểu bang trong số 50 Tiểu
bang đều có Nghị viện riêng và các Nghị viện này làm luật cho Tiểu bang
về nhiều vấn đề khác nhau và trong đại Quốc hội chỉ có thể điều khiển
với sự hợp tác của Tiểu bang. Tu chính án thứ X luôn luôn nhắc nhở Quốc
hội rằng: “Những quyền hành mà Hiến pháp không ủy thác cho Liên bang và
không cấm các Tiểu bang sử dụng thì được ủy thác cho Tiểu bang hoặc cho
nhân dân”.
Như thế, hoạt động của Quốc hội bị hạn chế rất nhiều trong hệ thống Liên bang Hoa Kỳ.
c. Sự kiện thứ ba: Quốc hội Hoa Kỳ là một Quốc hội lưỡng viện và một Quốc hội lưỡng viện trên lí thuyết cũng như trong thực tế.
Sở dĩ phải nhấn mạnh như thế là vì trong đa số các nước mà cơ quan Lập
pháp gồm hai Viện, trong thực tế chỉ có một viện là thực sự nắm chủ
quyền. Ở Hoa Kỳ, trái lại Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện là hai cơ
quan riêng biệt về quyền hành cũng như về thế lực.
- Thượng Nghị viện tương đối nhỏ hơn Hạ
Nghị viện, gồm 100 Thượng nghị sĩ (với nhiệm kì 6 năm). Mỗi Tiểu bang cử
hai vị không kể lớn hay nhỏ. Thượng Nghị viện đại diện các Tiểu bang và
được thế giới biết tiếng nhiều vì Thượng Nghị viện có hẳn độc quyền mà
Hạ Nghị viện không có: đó là quyền phê chuẩn các hiệp ước do Tổng thống
kí bằng đa số 2/3 và quyền biểu quyết xác nhận những sự bổ nhiệm các
công chức cao cấp của Tổng thống.
- Hạ Nghị viện gồm 437 Nghị sĩ bầu với
nhiệm kì là 2 năm. Hạ Nghị viện có một đặc quyền là đưa ra “mọi đạo luật
để tăng thêm lợi tức”. Tức là đại diện toàn thể nhân dân, Hạ Nghị viện
có ưu thế về các đạo luật liên hệ đến tài chính; các đạo luật này được
thảo luận trước tiên tại Hạ Nghị viện.
- Mặc dù quyền hạn và thủ tục khác nhau,
giữa hai Viện có một sự bình đẳng. Một dự luật phải được hai Viện thông
qua dưới hình thức tương tự, trước khi chuyển sang Tổng thống Phủ ban
hành. Không một Viện nào có quyền gì bắt Viện kia phải theo quan điểm
của mình về một đạo luật nào.
Về tổ chức nội bộ, xin nhớ rằng mỗi Viện
gồm có một số ủy ban. Hạ Nghị viện gồm 20 ủy ban thường trực, mọi vị
nghị sĩ thường có chân trong một ủy ban. Thượng Nghị viện có 17 ủy ban,
mỗi thượng nghị sĩ thường tham dự 2 ủy ban. Đó là những ủy ban thường
xuyên, không kể ủy ban hỗn hợp để nghiên cứu những vấn đề rộng lớn và
mới mẻ, và các ủy ban đặc biệt để điều tra. Các Chủ tịch ủy ban được
liệt vào số những người có thế lực nhất trong chính quyền Mỹ Quốc.
2. Nhiệm vụ của Quốc hội
a. Thứ nhất: Ban hành luật pháp:
tức là làm luật, ấn định chính sách và cung cấp phương tiện cho Hành
pháp. Phạm vi thẩm quyền của Quốc hội về luật pháp được ấn định trong
Hiến pháp: phạm vi này gồm thương mại, tiền tệ, tín dụng, di trú, phòng
thủ. Ngoài ra, Quốc hội còn có những quyền khác thường như khai chiến,
chấp nhận Tiểu bang mới vào Liên bang. Đó là những vấn đề đã được ấn
định rõ bởi Hiến pháp, tức là vấn đề mà nhà lập hiến năm 1787 nghĩ tới.
Từ năm 1787 đến nay, thời gian qua, bao nhiêu vấn đề được đặt ra liên hệ
đến nền văn minh tân tiến mà nhà lập hiến năm 1787 không hề nghĩ đến,
ví dụ như vấn đề quy tắc về lương bổng, quy tắc về số giờ làm việc, xây
đắp công trình công ích, chế độ hưu bổng trên toàn quốc v.v… Trên nguyên
tắc, Quốc hội không quyền thông qua, biểu quyết đạo luật liên quan đến
các vấn đề này, vì Hiến pháp không có trù liệu. Tuy nhiên, Quốc hội Hoa
Kỳ đã biểu quyết nhiều đạo luật về các vấn đề này và Quốc hội đã dựa
trên một điều khoản rất nhỏ, rất kín đáo nhưng rất nổi danh của bản Hiến
pháp. Đó là điều khoản cho phép Quốc hội thông qua những đạo luật xét
ra là “cần thiết và thích nghi” để Quốc hội thi hành quyền hạn mà Hiến
pháp ủy thác cho, Điều khoản nhỏ bé nhưng nổi danh này được khai thác,
vì áp lực của nền văn minh và với sự giải thích trên quan niệm tân tiến
của Tối cao Pháp viện, nên Quốc hội Hoa Kỳ ngày nay có quyền biểu quyết
nhiều vấn đề – không trù liệu rõ ràng bởi Hiến pháp – nhưng có một tầm
quan trọng đối với quốc gia.
Cũng trong nhiệm vụ luật pháp cần phải
thêm rằng Quốc hội giữ trách nhiệm tu chính Hiến pháp. Và xin nhắc rằng
tu chính án phải thuộc mỗi Viện chấp thuận với đa số 2/3 và sau đó phải
được ¾ các Nghị viện Tiểu bang phê chuẩn.
b. Nhiệm vụ thứ nhì: biểu quyết ngân sách quốc gia.
Chính Quốc hội có nhiệm vụ “đánh thuế, vay và tiêu tiền” cho cuộc phòng
thủ chung và nền an lạc chung của Hoa Kỳ. Quốc hội để dành nhiều, một
phần lớn các phiên họp để mổ xẻ các đạo luật về thu chi, và quyền thu
chi là một quyền mà Quốc hội Mỹ để ý nhiều nhất.
c. Nhiệm vụ thứ ba: Giám thị và kiểm soát ngành Hành pháp.
Đây là một nhiệm vụ lịch sử của bất cứ cơ quan Lập pháp nào trong một
nền dân chủ hợp hiến. Nhưng Quốc hội Hoa Kỳ gặp nhiều khó khăn trong
nhiệm vụ này vì lí do quan trọng là Hành pháp hoàn toàn độc lập; nhất là
vị Tổng thống là người do dân bầu ra không có dính dáng gì với Quốc hội
và không thể bắt buộc từ chức bởi một sự bất tín nhiệm của Quốc hội. Và
với sự phân quyền cứng rắn của chế độ Tổng thống ở Mỹ, Quốc hội không
thể yêu cầu một cách trực tiếp Tổng thống tường trình chính sách hoặc
các hoạt động thường ngày.
Tuy nhiên, vai trò giám thị và kiểm soát
Hành pháp của Quốc hội được thể hiện qua nhiều phương tiện nhỏ nhưng
không kém hiệu lực, ví dụ:
Như mời các nhân vật phụ tá cao cấp ra cung khai trước các ủy ban của hai Viện.
Như điều khiển các cuộc điều tra. Thường
thường các cuộc điều tra do các ủy ban của hai Viện đảm nhiệm và phạm
vi của điều tra bao gồm hầu hết mọi địa hạt của đời sống chính trị. (Kỉ
luật trong Quân đội, mánh lới làm tiền bằng hăm dọa công đoàn, nguyên
nhân các tai nạn máy bay, các vụ đấu thầu của Chính phủ, nạn thiếu nhi
phạm pháp v.v…) Qua những cuộc điều tra, Quốc hội góp phần quan trọng
vào sức mạnh nền dân chủ Mỹ bằng cách luôn luôn chỉnh trấn những căn
bệnh vừa chớm nở trong Chính phủ, trong quân lực cũng như trong giới
doanh thương, lao động và giáo dục.
C. Tối cao pháp viện
Điều 3 Hiến pháp Hoa Kỳ: “Quyền tư pháp
Mỹ quốc được trao cho một Tối Cao Pháp viện và các tòa án cấp dưới mà
Quốc hội có thể thỉnh thoảng chỉ định và thiết lập”
Điều khoản này nhấn mạnh tầm quan trọng
của một ngành thứ ba trong hệ thống chính quyền Mỹ: đó là nghành tư
pháp. Chúng ta sẽ lần lượt trình bày những điểm chính của nghành này.
1. Tầm quan trọng của ngành Tư pháp
Ngành Tư pháp Hoa Kỳ và nhất là Tối cao
Pháp viện tại Hoa Thịnh Đốn có một tầm quan trọng đặc biệt, vượt hẳn mọi
ngành Tư pháp trong đa số các quốc gia khác và có thể xem là một trong
những yếu tố căn bản của nền dân chủ Hoa Kỳ. Những phán quyết của Tối
cao Pháp viện đã có một giá trị quyết định trong lịch sử nước Mỹ. Sau
đây là vài thí dụ:
- 1803 Madison: quyền kiểm hiến của Tối cao Pháp viện
- 1937, Tối cao Pháp viện đã duy trì một
đạo luật Wagner thiết lập Ban liên lạc Lao động Quốc gia (National
Labor Relations Board). Đạo luật này thường được xem là bản Hiến chương
của giới lao động có tổ chức tại Mỹ. Với quyết định quan trọng này, Tối
cao Pháp viện xác nhận và củng cố quyền hạn của Quốc hội trong việc quy
định mối tương quan giữa lao động và chủ nhân các ngành kĩ nghệ lớn.
- 1952, Tối cao Pháp viện từ khước lời
yêu cầu của Tổng thống Truman xin được quyền xung công và sử dụng các lò
đúc thép của tư nhân trong tình trạng khẩn cấp quốc gia.
- 1954, Tối cao Pháp viện quyết định
rằng mọi kì thị chủng tộc trong các trường học là bất hợp hiến và phán
quyết chấn chỉnh thủ tục áp dụng trong các Tiểu bang của miền Nam không
cho học sinh da đen học chung với học sinh da trắng.
Các phán quyết của Tối cao Pháp viện
thường thường được đón tiếp bởi công luận Mỹ một cách khác trong Tiểu
bang, giai cấp xã hội và khuynh hướng chính trị. Từ ủng hộ nồng nhiệt
đến chống đối mãnh liệt. Nhưng với những phán quyết quan trọng, Tối cao
Pháp viện chiếm một địa vị then chốt trong việc giải thích luật lệ quốc
gia và điều hành cơ quan công quyền Mỹ Quốc.
2. Cơ cấu của nền Tư pháp Hoa Kỳ
Hai hệ thống: Liên bang và các Tiểu bang
a. Tòa án Liên bang: Tòa án Quận, Tòa Thượng thẩm và Tối cao Pháp viện
- Tòa án Quận: trên khắp nước Mỹ có 91 Tòa án Quận có nhiệm vụ xét xử tất cả các vụ án Liên bang.
- Tòa Thượng thẩm: 11 có nhiệm vụ tái thẩm những nghị quyết của Tòa án Quận.
- Tối cao Pháp viện ở Hoa Thịnh Đốn, chỉ
xét xử những vụ án Liên bang quan trọng nhất và có quyền chung quyết,
và tái xét những phán quyết của những Tòa án chuyên môn (xét xử trong
địa hạt chuyên môn, ví dụ như Tòa án Quan thuế, Tòa án khiếu nại (dân
kiện chính phủ xin bồi thường).
b. Tòa án các Tiểu bang
Hệ thống các Tòa án Liên bang vừa kể chỉ là một bộ phận nhỏ của một hệ thống Tòa án rộng lớn của nước Mỹ.
Thật vậy, trong mỗi Tiểu bang của 50
Tiểu bang ở Hoa Kỳ, đều có một hệ thống tư pháp riêng biệt và luật pháp
riêng biệt. Và thường thường mỗi hệ thống tư pháp của mỗi Tiểu bang là
một đơn vị độc lập trong đó Tòa án cao cấp của họ có quyền có những
quyết định tối hậu. Tuy nhiên với thời gian và sự thống nhất luật pháp,
tất cả các vụ án liên hệ đến luật pháp, quyền hạn và vấn đề có tính cách
quốc gia chung đều thuộc thẩm quyền các Tòa án Liên bang. Và mặc dù Tối
cao Pháp viện không trực tiếp kiểm soát các Tòa án Tiểu bang, các Tòa
án này vẫn phải tuân theo đạo luật của Quốc hội mà Tối cao Pháp viện đã
giải thích.
3. Thành phần và thủ tục của Tối cao Pháp viện
a. Tối cao Pháp viện gồm một vị chánh án
và 8 vị phụ tá. Tất cả 9 vị này do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý
của Thượng Nghị viện. Tất cả đều được chọn lựa trong số các luật gia nổi
tiếng và được giao phó giữ chức vụ “trong thời gian họ có hạnh kiểm
tốt”. Câu này rất quan trọng, nó có nghĩa là các vị thẩm phán ở Tối cao
Pháp viện giữ chức vụ trọn đời cho đến chết, nếu họ đủ khả năng làm tròn
trách nhiệm. Mặc dù khi đến 70 tuổi họ có quyền về hưu và tiếp tục
hưởng lương bổng, họ vẫn có quyền, nếu họ muốn tiếp tục đảm nhiệm chức
vụ. Các vị thẩm phán chỉ có thể bị truất chức trong trường hợp “phản
bội”, hối lộ hoặc các trung và khinh tội khác”. Trong các trường hợp này
Hạ Nghị viện sẽ làm bản cáo trạng và Thượng Nghị viện – đa số 2/3 xác
nhận.
Với những điều kiện an ninh như thế –
không sợ bị bãi chức, không phải lo âu về các vấn đề tái nhiệm hoặc tái
cử, với số lương bổng rất cao, các Thẩm phán Tối cao Pháp viện hoàn toàn
độc lập về tinh thần cũng như vật chất để thi hành nhiệm vụ.
b. Thủ tục: Niên khóa Tư pháp bắt đầu
tháng 10 và kết thúc vào tháng 6. Tối cao Pháp viện có những phiên nhóm
công khai và phiên nhóm kín. Những phiên nhóm công khai của Tối cao Pháp
viện đã nổi tiếng về nghi thức cũng như về phẩm cách. Các quan tòa mặc
áo choàng đen, chăm chú theo dõi những lời biện hộ, chú trọng đến các hồ
sơ của đương sự và đặt nhiều câu hỏi sắc bén. Không ai dám cất tiếng
nói to trước Tối cao Pháp viện. Các phiên họp kín là những phiên họp mà
các vị tòa thảo luận và phán quyết. Ông chánh án chủ tọa phiên họp, lần
lượt nghe ý kiến của từng vị thẩm phán theo thứ tự niên kỉ (già, trẻ)
rồi các vị tòa bỏ phiếu, lần này, theo thứ tự trẻ già. Các phán quyết
của Tối cao Pháp viện thường thường có tính cách đồng thanh. Tuy nhiên,
có nhiều vụ án quan trọng, nhất là các vụ án về nguyên tắc, chỉ có tính
cách đa số tương đối mà thôi. Và tỉ lệ thẩm phán thuận hay nghịch có
thể là 6-3 hoặc 5-4. Các thẩm phán hoàn toàn có quyền trình bày quan
điểm của mình dù đồng ý hay không đồng ý với đa số. Và lịch sử nền Tư
pháp Hoa Kỳ đã chứng minh rằng một số quan điểm “bất đồng” đã gây một
ảnh hưởng quan trọng cho án lệ về sau. Dù sao, để tóm lại, với những
điều kiện an ninh cá nhân và với thủ tục đầy bảo đảm, các vị thẩm phán
Tối cao Pháp viện hoàn toàn có tính cách độc lập, độc lập với Quốc hội,
với Tổng thống và công luận, và độc lập giữa họ với nhau nữa.
4. Nhiệm vụ Tối cao Pháp viện
a. Nhiệm vụ phán quyết: một
hành động thuần túy của một cơ quan tài phán. Tối cao Pháp viện có quyền
chung quyết trong mọi cuộc tranh chấp về pháp luật và giữa các đương sự
khác nhau. Cần phải nhấn mạnh rằng mọi quyết nghị của Tối cao Pháp viện
đều được toàn thể các tòa án trong nước và các tòa án Tiểu bang nghiên
cứu kĩ và thường thường được tuân theo.
b. Nhiệm vụ bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và
để thực hiện hoạt động này, Tối cao Pháp viện có thể đưa ra mệnh lệnh
hoặc sự trừng phạt gắt gao để làm hậu thuẫn cho những viên chức có trọng
trách thi hành luật pháp.
c. Nhiệm vụ làm luật: làm luật
bằng án lệ. Thường thường trong những án lệ quan trọng. Tối cao Pháp
viện thường đặt ra những nguyên tắc căn bản. Những nguyên tắc này được
áp dụng trong các vụ khác trước các tòa án khác, lần lần biến thành luật
– luật do toà án làm ra nhưng trong thực tế được coi là luật pháp.
d. Nhiệm vụ giải thích và bảo vệ Hiến pháp.
Với nhiệm vụ này, Tối cao Pháp viện trở thành một cơ quan quyết định
tối hậu bảo đảm rằng mọi đạo luật do Quốc hội hay của Tiểu bang thông
qua, hoặc mọi hành động của Chính phủ không vi phạm đến Hiến pháp. Nói
một cách khác, Tối cao Pháp viện giữ cho Tổng thống và Quốc hội khỏi
vượt qua đường ranh giới phân chia hệ thống chính quyền Mỹ làm 3 phần
cách biệt nhau. Hơn nữa, không những duy trì thế quân bình giữa ba ngành
khác biệt, Tối cao Pháp viện còn có nhiệm vụ duy trì thế quân bình cho chủ nghĩa Liên bang,
nghĩa là bảo vệ cơ cấu, quyền lợi quốc gia chống lại những lấn át của
các Tiểu bang và đồng thời bảo vệ quyền lợi tương tự của các Tiểu bang
chống lại chính quyền quốc gia. Hai điều khoản quan trọng của Hiến pháp
là hậu thuẫn cho nhiệm vụ này.
- Điều 6, đoạn 2, mệnh danh là “Khoản về
quyền tối thượng” thiết lập quyền tối thượng của luật Liên bang đối với
luật Tiểu bang trong những tranh chấp rõ rệt.
- Tu chính án số 10: dành cho Tiểu bang tất cả quyền hành của Hiến pháp, không cấm họ hoặc không trao cho Chính phủ quốc gia.
Qua sự giải thích, Tối cao Pháp viện đã
đưa ra những chính sách dưới hình thức những phán quyết quan trọng đối
với đời sống quốc gia và ảnh hưởng rất nhiều đối với lịch sử Mỹ Quốc.
Mục III: THỰC TẠI CHÍNH TRỊ
Đoạn 1: MỘT HỆ THỐNG CHÍNH ĐẢNG DUY NHẤT
Nhìn kĩ lại cuộc sinh hoạt chính trị Hoa
Kỳ, một trong những đặc điểm là Hoa Kỳ có một hệ thống chính đảng kỳ
lạ, đặc biệt. Nói một cách khác, Hoa Kỳ có một hệ thống lưỡng đảng và
một hệ thống đa đảng. Tuy nhiên, hệ thống lưỡng đảng bề ngoài và một hệ
thống đa đảng thực sự.
A. Một hệ thống lưỡng đảng
Thoạt tiên mọi người đều cho rằng Hoa Kỳ
áp dụng một hệ thống lưỡng đảng. Vì chúng ta chỉ nghe nói đến hai chính
đảng: Cộng hòa và Dân chủ. Và hai chính đảng này chiếm độc quyền trong
cuộc sinh hoạt chính trị Mỹ Quốc. Và chúng ta có thể nói rằng không một
ứng cử viên nào – ngoài hai ứng cử viên Cộng hòa và Dân chủ – có hi vọng
đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ.
Tuy nhiên đó chỉ là tính cách lưỡng đảng
bề ngoài. Thật vậy, có một hệ thống lưỡng đảng trong một quốc gia không
phải chỉ có nghĩa là quốc gia ấy chỉ có hai chính đảng. Điều cần thiết
phải là mỗi chính đảng ấy đại diện cho một khuynh hướng chính trị có mạch lạc và có kỉ luật nội bộ.
Hai điều này, không một chính đảng nào ở Hoa Kỳ thực hiện. Chúng ta có
thể quả quyết rằng Đảng Cộng hòa, cũng như Đảng Dân chủ không có chương
trình riêng biệt. Cách đây hơn một thế kỉ, sự khác biệt giữa Cộng hòa và
Dân chủ dựa trên tiêu chuẩn Liên bang: Đảng Cộng hòa ủng hộ giải pháp
tăng cường quyền trung ương, trong lúc ấy Đảng Dân chủ bảo vệ quyền lợi
Tiểu bang. Ngày nay, sự khác biệt này không còn nữa và để phân biệt Cộng
hòa và Dân chủ, chúng ta có thể nói rằng Đảng Cộng hòa đại diện giới
kinh doanh, kĩ nghệ gia; Đảng Dân chủ có cảm tình với giới thợ thuyền,
nghiệp đoàn và trí thức. Tóm lại, Cộng hòa thân hữu và Dân chủ thân tả.
(Hai khuynh hướng này chỉ có tính cách tương đối.)
Đây là một ý niệm tổng quát. Thực ra
khuynh hướng chính trị trong mỗi chính đảng rất là phân li và không có
tính cách mạch lạc. Để lấy một thí dụ cụ thể: Đảng Dân chủ được xem là
chính đảng khuynh tả, nhưng trong chính đảng này lại có rất nhiều phần
tử hoàn toàn phản động[2], có tính cách thủ cựu nhất là những Tiểu bang miền Nam: kỳ thị chủng tộc và quan niệm kinh tế bảo thủ.
Sở dĩ như thế là vì các chính đảng ở Hoa Kỳ không phải là đảng có ý thức hệ.
Thật vậy, các chính đảng Hoa Kỳ gạt một bên mọi ý thức hệ về chủ trương
cũng như hành động. Hai đảng lớn bao gồm những niềm tin khác biệt nhau
trong số các đảng viên và trong số lãnh tụ của họ. Người ta ví các chính
đảng Hoa Kỳ là “những tạo vật thỏa hiệp, những liên kết quyền lợi trong
đó các nguyên tắc không được phát biểu.”
Thật vậy, về chính sách đối nội, trước
một số vấn đề, các đảng viên Dân chủ miền Nam và miền Bắc đồng ý nhau,
trong khi về vài vấn đề khác các đảng viên Dân chủ miền Nam gần đảng
Cộng hòa hơn. Về vấn đề dân quyền chẳng hạn, Đảng Cộng hòa và nhóm Dân
chủ miền Bắc bắt tay nhau, còn Dân chủ miền Nam cô lập ít nhiều trong
việc chống đối.
Tóm lại, trong Quốc hội thường thường người ta thấy một liên hiệp Dân chủ và Cộng hòa bỏ
phiếu chấp thuận một đạo luật và một liên hiệp Dân chủ, Cộng hòa khác
chống đối lại. Nguyên nhân là không phải ý thức hệ của Đảng mà trái lại ý
kiến và quyền lợi của cử tri ở các Tiểu bang và các khu bầu cử của họ
đã chỉ thị cho các nghị sĩ cách thức bỏ phiếu.
Không có khuynh hướng chính trị mạch lạc, chính đảng Hoa Kỳ lại không có kỉ luật nội bộ.
Chúng ta có thể nói rằng không có gì bắt buộc Thượng nghị sĩ hay Hạ
nghị sĩ Mỹ bỏ phiếu theo một đường lối do đảng ấn định. Nghị sĩ Hoa Kỳ
bỏ phiếu tùy theo quan niệm riêng biệt của mình, tùy theo sức mạnh của
đoàn thể áp lực địa phương hay quyền lợi của Tiểu bang chứ không theo
mệnh lệnh của chính đảng.
Sự thiếu kỉ luật nội bộ này là hậu quả của một sự tản quyền của
các chính đảng tại Hoa Kỳ. Ủy ban toàn quốc hay Chủ tịch toàn quốc của
đảng không có một phương tiện nào trong tay để bắt buộc các tổ chức địa
phương hay ở cấp Tiểu bang tuân theo quan điểm của mình. Không có một
đảng nào, trong hai đảng lớn, tùy thuộc một văn phòng trung ương. Cấp
bực cao nhất là Đại hội toàn quốc chỉ nhóm họp, bốn năm một lần, để chỉ
định ứng cử viên tranh chức Tổng thống và Phó Tổng thống, soạn thảo
chương trình. Trong khoảng thời gian của Đại hội ấy, không có một cơ cấu
chỉ đạo duy nhất nào được công nhận và tuân hành bởi các đảng viên.
Thí dụ điển hình nhất là tình trạng của
Tổng thống Hoa Kỳ trước một Quốc hội mà đa số thuộc về chính đảng với
Tổng thống. Kinh nghiệm cho thấy rằng Tổng thống không bao giờ chắc chắn
được sự ủng hộ đa số ấy – luôn luôn có một số nghị sĩ thuộc về đảng ông
bỏ phiếu chống ông, chống tất cả đề nghị của ông. Về phương diện này,
trường hợp Nghị sĩ dân chủ Fulbright thường chống các đề nghị của Tổng
thống dân chủ Johnson, nhất là các dự án thuộc vấn đề Việt Nam. Vụ chống
tăng ngân sách viện trợ phát triển Quốc tế thuộc tài khóa 1968 đã đưa
đến kết quả Quốc hội xén hẳn một nửa dự án tài trợ Chánh phủ từ 4 tỷ
giảm còn 2 tỷ khiến chương trình bình định tại Việt Nam bị ảnh hưởng khá
nhiều. Ngược lại, có một số nghị sĩ thuộc đảng đối lập ủng hộ ông. Đó
là một tình trạng rất quái lạ. Và chúng ta chỉ có thể hiểu tình trạng
quái lạ này nếu chúng ta nhận thấy rằng hệ thống chính đảng Hoa Kỳ là
một hệ thống đa đảng.
B. Một hệ thống đa đảng thực sự
Hay nói cho đúng hơn, một hệ thống chính
đảng có tính cách địa phương. Chúng ta có thể nói – một cách quá đáng
một chút – rằng Hoa Kỳ có một trăm chính đảng. Để có một ý niệm đúng đắn
về hệ thống chính đảng Hoa Kỳ, cần phải nhận thức hai đặc điểm sau đây:
1. Chính đảng Hoa Kỳ trước nhất là một bộ máy.
Nghĩa là một tổ chức nhằm mục tiêu chiếm chính quyền. Chương trình,
đường lối, khuynh hướng chính trị v.v… chỉ có tính cách thứ yếu, không
quan trọng và chỉ là phương tiện cho một mục tiêu duy nhất: chiếm chính
quyền và giữ chính quyền. Người ta thường so sánh chính đảng ở Hoa Kỳ
với các đoàn thể thể thao. Thật vậy, mục tiêu của chính đảng ở Mỹ, và
cũng như ở một đoàn thể thể thao là đoạt giải vô địch, nghĩa là chiếm
ghế Tổng thống và đa số ở Quốc hội. Muốn đoạt giải vô địch thì cần phải
có huấn luyện viên, có những người ủng hộ, những cầu thủ xuất sắc. Mà
cầu thủ xuất sắc, huấn luyện viên hay những người ủng hộ, chính đảng tìm
thấy ở những nhân vật có tiếng tăm trong giới kinh doanh, luật gia hoặc
nghiệp đoàn. Tóm lại là tất cả những ngôi sao chỉ biết đưa ê-kíp của
mình đến chiến thắng.
2. Chính đảng Hoa Kỳ là một chính đảng địa phương.
Và đây là một đặc điểm quan trọng. Vì tính cách Liên bang của Hoa Kỳ,
cho nên vấn đề chiếm chính quyền được đặt nhiều không phải tại trung
ương – Hoa Thịnh Đốn – mà chính ngay ở địa phương. Hoạt động của chính
đảng Hoa Kỳ là những hoạt động lẻ tẻ, rời rạc, từng địa phương và trên
bình diện quận, thành phố, Tiểu bang.
Chính đảng Hoa Kỳ thực sự chỉ có mặt ở
địa phương. Ở đây hoạt động của chính đảng liên hệ rất nhiều đến hành
chính hàng ngày, đến những cuộc tuyển cử không ngừng. Trái lại, trên
bình diện quốc gia, chính đảng Hoa Kỳ chỉ là một liên hiệp của những bộ
máy địa phương. Và sự liên kết này chỉ có tính cách nhất thời – nghĩa là
cách 4 năm một lần – chung quy để đề cử và ủng hộ một nhân vật chiếm
giải vô địch cho đoàn thể mình – nghĩa là đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ.
Đấy là hệ thống đa đảng Hoa Kỳ là như
thế. Chính đảng Hoa Kỳ chỉ có mặt thực tại địa phương. Và cái mà người
ta gọi là Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ thật ra chỉ là một cuộc đối
thoại hay là một cuộc tranh đấu giữa những nhân vật tiếng tăm, có nhiều
ảnh hưởng trong một thành phố nào, trong một Tiểu bang nào đó.
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng Hoa Kỳ
có hai đảng: nhưng phải tức tốc thêm rằng hệ thống lưỡng đảng cũng chỉ
có trong vòng vài tháng và 4 năm một lần. Qua thời gian ấy, Hoa Kỳ có
thực sự một hệ thống đa đảng.
Đoạn 2: MỘT CHÍNH THỂ ĐẠI NGHỊ TRÁ HÌNH
Như chúng ta đã biết, chế độ Tổng thống
Hoa Kỳ là một chế độ phân quyền rõ rệt. Tuy nhiên thực tế chính trị đưa
đến một tình trạng là Hoa Kỳ ngày nay là một chế độ đại nghị thực sự bởi
lí do quan trọng là cơ quan công quyền Mỹ cộng tác với nhau thi hành
nhiệm vụ.
A. Chính thể đại nghị và chính thể Tổng thống
Xin nhắc lại rằng người ta thường hay
định nghĩa chế độ đại nghị là một chế độ áp dụng nguyên tắc hợp quyền.
Tuy nhiên, thực tế chính trị cho thấy rằng hệ thống chính đảng đảo lộn
tất cả các nguyên tắc pháp lí. Và trường hợp Anh Quốc chẳng hạn là
trường hợp điển hình. Trên thực tế, chúng ta không thể nói rằng chế độ
Anh Quốc là một chế độ hợp quyền. Vì không thể tìm thấy một sự hợp quyền
nào cả. Chế độ Anh Quốc là một chế độ của một chính đảng chống một
chính đảng.
B. Chính thể Hoa Kỳ là một chính thể đại nghị ở hành lang
Trái lại, chế độ Tổng thống Hoa Kỳ –
thường được định nghĩa là một chế độ áp dụng nguyên tắc phân quyền cứng
rắn – trong thực tế lại là một chế độ hợp quyền. Lí do rất dễ hiểu. Như
chúng ta đã biết, không một cơ quan nào có thể tiêu diệt cơ quan khác
trong hệ thống chính quyền ở Mỹ. Tổng thống không quyền giải tán Quốc
hội, Quốc hội không quyền truất phế Tổng thống. Kết quả là phải có
nhường nhịn để sống chung với nhau và thay vì xa nhau, hai cơ quan công
quyền phải trao đổi, dàn xếp, thảo luận ở hành lang, vì Hiến pháp cấm
không có sự hợp tác chính thức – và vì thế mà một chính trị gia Hoa Kỳ
cho rằng Hoa Kỳ áp dụng chính thể đại nghị ở hành lang. Hiểu như vậy,
chúng ta mới không ngạc-nhiên khi thấy bộ máy công quyền Hoa Kỳ vẫn hoạt
động điều hòa khi Tổng thống thuộc đảng này mà đa số Nghị sĩ hay dân
biểu lại là người đảng khác. Đó là trường hợp hiện nay của Hoa Kỳ: Tổng
thống Nixon người Đảng Cộng hòa, trong khi Đảng Dân chủ chiếm đa số ghế
tại cả Thượng lẫn Hạ Nghị viện.
Trong thực tại, sự hợp tác chặt chẽ và
có thể nói không ngừng giữa Tổng thống và Quốc hội là một đặc điểm của
cuộc sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ.
Đoạn 3: MỘT NỀN DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN BỞI MỘT CÁ NHÂN
Nền dân chủ Hoa Kỳ có tính cách phức tạp. Vì dân chủ được thực hiện song song với uy tín của một cá nhân.
A. Đặc tính của nền dân chủ Hoa Kỳ
Không ai có thể phủ nhận tính cách dân
chủ của cuộc sinh hoạt chính trị Mỹ Quốc. Tuy nhiên tính cách dân chủ ấy
đượm nhiều khía cạnh địa phương và hỗn loạn.
Quốc hội Hoa Kỳ chẳng hạn có thể ví như
một Quốc hội trong ấy hệ thống đa đảng được áp dụng. Thật vậy, trong
Quốc hội Hoa Kỳ, ranh giới các chính đảng rất lu mờ, cũng như chính kiến
không được rõ rệt. Tổng thống Hoa Kỳ không thể luôn luôn tin tưởng ở đa
số chính đảng của ông. Ông cũng không phải luôn luôn gặp sự chống đối
của đảng đối lập.
Cử tri tại Mỹ đa số chỉ nghĩ đến các vấn
đề có tính cách địa phương, không liên hệ nhiều đến các vấn đề quốc gia
hay quốc tế trọng đại mà Quốc hội Hoa Kỳ đề cập và giải quyết.
Một hệ thống chính đảng vô kỉ luật và
trọng tâm chính trị là địa phương, chính hai yếu tố này đưa đến một tình
trạng ưu thế của Tổng thống Hoa Kỳ.
B. Một cá nhân đại diện nền dân chủ Hoa Kỳ
Tổng thống Hoa Kỳ, như chúng ta đã biết,
do chính toàn dân bầu lên, một cách trực tiếp, tượng trưng cho quốc
gia, đầy thẩm quyền quyết định và không chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Chúng ta có thể nói rằng ý chí của toàn
dân, thể hiện qua cuộc bầu cử Tổng thống. Trong những cuộc bầu cử liên
tục tại Hoa Kỳ – vì ở Hoa Kỳ dân chúng bầu liên miên (Thượng nghị sĩ, Hạ
nghị sĩ, Thống đốc, Tòa án, Hội đồng v.v…) chỉ có cuộc bầu cử Tổng
thống là dịp để cử tri Hoa Kỳ nhận thức được tầm quan trọng của lá phiếu
của mình, họ có cảm giác rằng họ sẽ quyết định cái gì. Mặc dù chương
trình của hai chính đảng – hay là của hai ứng cử viên có vẻ mơ hồ hay
không khác nhau cho lắm – mặc dù thế, những ứng cử viên phác họa một
phần nào tương lai chính trị của Quốc gia. Một người dân bầu cho ông
Kennedy chắc chắn rằng tương lai của Hoa Kỳ với ông Kennedy sẽ khác
tương lai của Hoa Kỳ với ông Nixon (Johnson và Goldwater).
Cuộc sinh hoạt chính trị tại Mỹ có tính
cách thiết yếu đối với cuộc sinh hoạt kinh tế. Thường thường trong cuộc
sinh hoạt hàng ngày, chính trị là tất cả những tranh luận về ngôi thứ,
về tiền bạc, về những vấn đề địa phương với những đoàn thể áp lực và
những chính trị gia chuyên môn.
Nhưng, 4 năm một lần, cử tri Hoa Kỳ được
gọi để quyết định vận mạng của nước họ: chính là lúc bầu cử Tổng thống.
Và trong lịch sử nước Mỹ, chức vụ Tổng thống đã được đưa lên một địa vị
vinh quang, lấn cả Quốc hội, và Tối cao Viện, và được xem là tượng
trưng cho nền dân chủ Hoa Kỳ. Những lí do nào đã đưa đến một tình trạng
như thế:
1. Lí do thứ nhất là sự phát triển nhanh chóng của một nền văn minh kĩ nghệ.
Thâu hoạch những thắng lợi của cuộc cách mạng kĩ nghệ ở Âu Châu, nền
văn minh kĩ nghệ Hoa Kỳ phát triển mau lẹ, và trên đường diễn biến ấy đã
đặt bao nhiêu vấn đề trọng đại, mật thiết liên hệ đến toàn dân. Để giải
quyết hàng vạn vấn đề ấy, Quốc hội phải tạo ra một nền hành chính khổng
lồ với hàng triệu nhân viên. Kết quả là Tổng thống, vị chỉ huy Hành
pháp, nhân vật mà Hiến pháp chỉ định có bổn phận đôn đốc cho pháp luật
được thi hành một cách trung thực, đã được đem lên một địa vị về quyền
thế hành chính không tiền khoáng hậu trong lịch sử dân chủ Tây phương.
2. Lí do thứ nhì là tình trạng khẩn cấp
đã xẩy ra trong nước và ngoài nước mà Hoa Kỳ cũng như bao quốc gia khác
trên thế giới, đồng thời sự tham gia tích cực và càng ngày càng bành
trướng của Mỹ vào quốc tế sự vụ để tăng quyền hành của Tổng thống lên
một cách thường trực.
3. Lí do thứ ba là sự tham gia liên tục
của toàn dân vào cuộc phát triển chính trị. Từ ngày Hiến pháp được thành
lập đến nay, chức vụ Tổng thống đã được nhân dân Mỹ xem là công cụ đặc
biệt của họ và là đại diện của họ. Trong lúc Quốc hội là cơ quan đại
diện nhân dân – nhưng đại diện dưới hình thức một tập thể về quyền lợi và khu vực,
thì Tổng thống là đại diện cho toàn thể nhân dân dưới hình thức một
quốc gia. Và lịch sử nước Mỹ đã chứng minh rằng cá nhân của Tổng thống
đã đóng một vai trò tối quan trọng trong cuộc tiến triển của nền dân chủ
Hoa Kỳ.
Thật vậy, không một biến cố quan trọng
nào mà Tổng thống không trực tiếp ảnh hưởng và lắm khi uốn nắn tình hình
theo sở nguyện. Và để có những ví dụ thực tiễn xin kể ra đây vài trường
hợp chứng minh rằng nền dân chủ Mỹ Quốc được đại diện bởi một cá nhân.
- Tổng thống George Washington
(1789-1797) vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ Quốc, là một nông gia Tiểu
bang Virginia, ông đã trở thành một vị chỉ huy những đạo quân chiến
thắng trong cuộc cách mệnh Mỹ. Với uy tín sẵn có, Tổng thống Washington
đã giành cho tổ quốc ông một địa vị xứng đáng trong đại gia đình các
quốc gia trên thế giới, và với những hành động quả quyết, ông đã đem lại
sức mạnh và độc lập cho chức vụ Tổng thống mới được đặt ra. Với uy tín
ấy và những điều kiện lịch sử đương thời Washington có thể xưng vương
hay trở nên một nhà độc tài. Nhưng triệt để tôn trọng Hiến pháp, Ông
Washington đã và chỉ là một Tổng thống. Sự kiện mà ông tự ý trở “về
vườn” sau 8 năm làm Tổng thống – sự kiến ấy đã trở thành một tập tục và
sau cùng là hiến luật như chúng ta đã biết – là một trong những biến cố
vĩ đại trong lịch sử của nền tự do Mỹ.
- Tổng thống Thomas Jefferson
(1801-1809) vị Tổng thống thứ ba của Mỹ quốc. Như Washington, Jefferson
cũng là một nông gia Tiểu bang Virginia. Nhưng Jefferson, khác với
Washington đã xông pha nhiều trong trường chính trị, Jefferson là người
sáng lập Đảng Dân chủ và đã khôn khéo lãnh đạo đảng này tại Quốc hội. Và
việc mua lại lãnh thổ Louisiana của Nã Phá Luân năm 1803 là một quyết
định táo bạo của ông.
- Tổng thống Adrew Jackson (1829-1837)
vị Tổng thống thứ bảy. Đặc điểm của ông Jackson là đã thấu hiểu rõ ràng
sự kiện quan trọng này: chức vụ Tổng thống đã suy nhược một cách trầm
trọng trong thời gian từ 1800-1829 vì Quốc hội lấn át quyền Hành pháp và
ông đã cương quyết giành lại tính chất độc lập cho quyền này. Chính ông
Jackson là người đầu tiên đã áp dụng quyền phủ quyết một cách mạnh mẽ
và hữu hiệu. Và điều đáng ghi và đó là thành công nhất của ông là ông
thuyết phục được nhân dân Mỹ rằng chức vụ Tổng thống là một lợi khí
chính quyền có tính cách dân chủ chứ không phải có tính cách quý tộc.
- Tổng thống Abraham Lincoln, người Tiểu
bang Illinois, vị anh hùng được mến yêu nhất của Mỹ Quốc (1861-1865).
Sau khi ông đắc cử Tổng thống, mỗi một Tiểu bang miền Nam mưu toan tách
khỏi Liên bang và thành lập các Chính phủ độc lập riêng biệt. Nhưng
Abraham Lincoln đã có một quyết định nhanh chóng và rõ ràng: Liên bang
Mỹ phải được bảo vệ và nếu cần, bằng võ lực. Trong suốt bốn năm trường,
Tổng thống Lincoln đã khích lệ nhân dân và chỉ huy quân đội của các Tiểu
bang trung thành với Liên bang. Và ông đã thành công trong cuộc chiến
tranh đẫm máu và khốc liệt ấy.
Đó là bốn ví dụ của thế kỉ 19. Trong thế
kỉ 20 này, người ta có thể kể ra một số nhân vật như T. Roosevelt
(1901-1909), Wodrow Wilson (1913-1921), F. Roosevelt (1933-1945) cũng
như gần đây Truman, Eisenhower, Kennedy, toàn là những nhân vật đã đem
thêm lại cho chức vụ Tổng thống một sự quan trọng mới mẻ.
Tóm lại, nói đến lịch sử chính trị Hoa
Kỳ không thể không nói đến hành động cùng ảnh hưởng của mỗi vị Tổng
thống. Và đặc điểm của chức vụ của Tổng thống là ông vừa là một lãnh tụ
của một chính đảng vừa là vị lãnh đạo quốc gia.
KẾT LUẬN: Để kết luận chế độ
chính trị Hoa Kỳ, chúng ta nhấn mạnh rằng khung cảnh pháp lí và thực tại
chính trị đã cùng nhau ảnh hưởng hỗ tương, phối hợp để tạo thành một
chính thể có một sắc thái đặc biệt. Điều đáng ghi nhận là chế độ Tổng
thống Hoa Kỳ đã là một thành công. Và người ta có thể tự hỏi tại sao chế
độ độc tài không được thích hợp tại nước Mỹ? Một cá nhân đầy uy tín,
với tất cả quyền hành đã không đưa đến một chế độ độc tài là một việc hi
hữu. Người ta giải thích sự kiện này bằng một số lí do:
- Hoa Kỳ là quốc gia Liên bang: sự tự
trị của mỗi Tiểu bang nay vẫn là một thực tại. Một khuynh hướng độc tài
của một Tổng thống, một sự đàn áp tự trị của Tiểu bang có thể đem đến sự
đổ vỡ của Liên bang.
- Hoa Kỳ là một nước giàu mạnh: điều này
cũng rất quan trọng. Đã giàu, thì ít có những cuộc khủng hoảng kinh tế
trầm trọng, và nếu có đi nữa, có thể giải quyết nhanh chóng và êm đẹp.
Tránh những khủng hoảng kinh tế, tránh những cuộc đấu tranh gay cấn,
khốc liệt có thể đưa đến một cuộc cách mạng xã hội, mà một nhà độc tài
có thể lợi dụng dễ dàng.
- Tinh thần tự do của nhân dân Hoa Kỳ.
Và tinh thần này ăn sâu vào tâm não của chính trị gia Hoa Kỳ. Nhà cầm
quyền Mỹ Quốc là những người chú trọng nhiều nhất đến dư luận: mỗi thay
đổi dư luận ảnh hưởng không ít đối với chính quyền. Vì thế mà chính
quyền Mỹ luôn luôn giải thích và cố thuyết phục nhân dân và chính sách
của mình. Mà để ý đến công luận như thế thì không thể có óc độc tài
được. Cũng nên nhắc rằng dân Hoa Kỳ đã là một dân bị trị và tinh thần
quật cường chống lại sự đàn áp vẫn còn uy tín trong công dân Mỹ ngày
nay.
- Thế lực ngang nhau của chính đảng Hoa Kỳ và tính cách đặc biệt của chính đảng này.
Uy thế của hai chính đảng Hoa Kỳ – khi
chúng ta nói hai chính đảng chúng ta nghĩ ngay đến cuộc bầu cử Tổng
thống – có thể nói ngang nhau. Đảng này coi chừng đảng kia, rất khó một
chính đảng có thể lợi dụng quyền hành của mình. Hơn nữa, như chúng ta đã
biết, tình trạng vô kỉ luật của chính đảng Hoa Kỳ làm cho Tổng thống
khó lòng mà tin tưởng ở đa số của chính đảng mình. Như chúng ta đã thấy,
nếu chính đảng Hoa Kỳ là một chính đảng có kỉ luật, thì khi mà Tổng
thống và đa số tại Quốc hội cùng chung một đảng thì không lí do nào có
thể ngăn cản một khuynh hướng độc tài phát hiện. Nhưng tại Mỹ, chính vì
sự vô kỉ luật mà Tổng thống không thể luôn luôn được đa số sau lưng
mình. Tính cách đặc biệt này là một trong những yếu tố quan trọng làm
cho chính quyền vẫn giữ mãi được tính cách dân chủ của nó.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
[1]
Tính tới thời điểm năm 1967 (thời điểm xuất bản cuốn sách này), Hiến
pháp Mỹ đã có 24 tu chính án. Cho tới nay, năm 2013, Hiến pháp Hoa Kỳ đã
có 27 tu chính án. (p&c)
[2] Lưu ý chữ “phản động” ở đây tác giả dùng với nghĩa rất bảo thủ như những diễn giải thêm sau đó, hoàn toàn khác với chữ phản động như báo chí nhà nước Việt Nam hiện nay đang dùng. (p&c)
http://www.procontra.asia/?p=3312
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét