Cần
gọi đúng tên cuộc chiến này
Theo FB Phạm Đình Trọng
Lần thứ 40 ngày 30
tháng tư của lịch sử đau thương mất mát, của vui nông nổi mà buồn thăm thẳm lại
đến.
Suốt 40 năm qua, hệ
thống tuyên truyền khổng lồ của đảng CSVN (Cộng sản Việt Nam) cầm quyền đã ngốn
quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên đất nước vào việc tự huyễn hoặc
mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày huy hoàng đại thắng,
ngày vẻ vang thống nhất đất nước.
Cuộc chiến tranh mà hệ
thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc
chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người
Việt, hệ quả tất yếu của hiệp định Genève cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai
tiền đồn, hai trận tuyến của hai ý thức hệ quyết liệt đối kháng, tiêu diệt
nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam thành hai thế lực thù địch không đội trời
chung, hai tên lính xung kích của hai lực lượng đối kháng đó. Việc chia cắt độc
đoán, phũ phàng, oan nghiệt đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam hoàn toàn do những
người cộng sản thực hiện, cộng sản Tàu mưu toan và áp đặt, cộng sản Việt cam
tâm cúi đầu chấp nhận.
Rắp tâm làm cuộc nội
chiến, lực lượng cộng sản Việt Nam ở miền Nam phải chuyển ra miền Bắc theo qui
định của hiệp định Genève nhưng họ đã bí mật ém lại lượng lớn súng đạn và khá
đông đội ngũ lãnh đạo cộng sản chỉ biết có đấu tranh giai cấp bạo liệt, sắt
máu, không biết đến đạo lí thương yêu đùm bọc giống nòi. Đầu năm 1959, đảng cộng
sản Việt Nam ban hành nghị quyết 15 xác định rõ việc thâu tóm miền Nam bằng bạo
lực cách mạng, tiến hành chiến tranh trong lòng dân tộc, quyết thực hiện nội
chiến tương tàn.
Có nghị quyết 15, những
người cộng sản ở miền Bắc liền hối hả mở đường đưa súng đạn và lực lương chiến
đấu vào miền Nam. Tháng năm, 1959, đường mòn từ miền Bắc xâm nhập miền Nam được
mở dọc theo dãy Trường Sơn. Tháng bảy, 1959, mở tiếp đường mòn trên biển, mở luồng
mở bến cho những con tàu không số chở súng, đạn, thuốc nổ từ Đồ Sơn, Hải Phòng
vào Vũng Rô, Phú Yên, Trung Bộ, vào Gành Hào, Cà Mau, Nam Bộ.
Có nghị quyết 15, cán
bộ cộng sản ở lại miền Nam nằm vùng liền tổ chức, tập hợp lực lượng. Những hầm
súng đạn được khui lên. Cuối năm 1959, tiếng súng nội chiến bùng nổ ở Trà Bồng,
Quảng Ngãi. Ngày 17. 1. 1960, tiếng súng nội chiến rộ lên ở huyện Giồng Trôm và
huyện Mỏ Cày, Bến Tre. Từ đó tiếng súng nội chiến lan ra khắp miền Nam. Khắp miền
Nam, nơi nào cũng có lãnh đạo cộng sản nằm vùng, nơi nào cũng mịt mù lửa khói nội
chiến, lênh láng máu người Việt giết người Việt. Từ đó, ngày 17. 1. 1960 được
những người Cộng sản tự hào coi là ngày Đồng khởi vẻ vang của họ. Còn lịch sử
Việt Nam phải đau buồn ghi nhận ngày 17. 1. 1960 là ngày khởi đầu cuộc nội chiến
Nam Bắc.
Chiến tranh vũ trang
thảm khốc và chiến tranh chính trị lừa dối do những người cộng sản phát động đã
đẩy chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam vào cuộc khủng hoảng nặng nề, triền
miên không có điểm dừng. Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa, một chính quyền được tổ chức theo mô hình dân chủ văn minh, có tam quyền
phân lập thực sự, nhờ thế người dân miền Nam bước đầu đã có tự do dân chủ thực
sự, một chính quyền đang chiến đấu ngăn chặn sự tràn lan bạo lực cộng sản; Trước
nguy cơ cả Đông Nam Á bị tràn ngập trong sắt máu bạo lực cộng sản, năm 1965,
sáu năm sau nghị quyết 15 của đảng CSVN sử dụng bạo lực thâu tóm miền Nam, gần
sáu năm sau tiếng súng nội chiến bùng nổ ở miền Nam, Mĩ mới đưa quân vào miền
Nam Việt Nam cứu đồng minh Việt Nam Cộng hòa trước nguy cơ sụp đổ và củng cố một
tiền đồn ngăn chặn cơn thác lũ cách mạng bạo lực cộng sản đang ở đỉnh cao trào.
Năm 1965, quân đội Mĩ
đổ vào Việt Nam cũng như năm 1944 quân đội Mĩ đổ bộ vào châu Âu trong chiến
tranh thế giới thứ hai, cũng như năm 1950 quân đội Mĩ đổ bộ lên bán đảo Triều
Tiên đều không có mục đích xâm lược, không đánh chiếm lãnh thổ mà chỉ để làm
trách nhiệm của một đồng minh và làm trách nhiệm của một nước lớn bảo đảm một
thế giới ổn định, công bằng, bảo vệ những giá trị tự do, dân chủ của con người,
ngăn chặn thảm họa phát xít thời thế chiến hai và ngăn chặn thảm họa cộng sản
đang như bệnh dịch nhấn chìm thế giới vào hận thù đấu tranh giai cấp, vào bạo lực
chuyên chính vô sản và nô dịch con người.
Cần giấu biến cuộc nội
xâm tội lỗi của ý thức hệ giai cấp, cuộc nội xâm mang hận thù giai cấp vay mượn,
mang tư tưởng bạo lực chuyên chính vô sản ngoại lai, mang súng đạn của thế giới
cộng sản về đánh phá dân tộc, nô dịch nhân dân, thống trị đất nước, ngay từ khi
phát động cuộc nội chiến phi nghĩa núp bóng cuộc chiến tranh chính nghĩa “giải
phóng miền Nam”, những người cộng sản đã vẽ ra con ngáo ộp “đế quốc Mĩ” hiếu
chiến, tham tàn, man rợ hù dọa người dân, đã lôi “đế quốc Mĩ” vào tham chiến để
biến cuộc nội chiến thành cuộc thánh chiến như lời bài hát của nhạc sĩ cộng sản
Lưu Hữu Phước sáng tác năm 1960: “Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến
bước / Diệt đế quốc Mĩ phá tan bè lũ bán nước”. Năm 1965, những đơn vị tinh nhuệ,
hiện đại nức tiếng của quân đội Mĩ, những sư đoàn Kị Binh Bay Số 1, lữ đoàn Tia
Chớp Nhiệt Đới . . . với xe tăng lổm ngổm bò kín đất Vạn Tường, Quảng Ngãi, máy
bay lên thẳng vè vè rợp trời Bông Trang Nhà Đỏ, Bình Dương thì hệ thống tuyên
truyền nhà nước Việt Nam cộng sản như bắt được vàng, như được trích một liều đô
pinh mạnh, họ reo lên: “Có những ngày vui sao cả nước lên đường / Xao xuyến bờ
tre từng hồi trống giục . . . Bộ đội dân công trùng trùng điệp điệp / Chào nhau
không kịp nhớ mặt nhớ tên / Đội ngũ ta đi dài theo tiếng hát . . .” Đó là thơ của
nhà thơ quân đội Nhân dân Việt Nam, Chính Hữu. Khi reo lên như vậy, năm 1966,
nhà thơ Chính Hữu là thiếu tá ở cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị. Lúc chết,
năm 2007, ông là đại tá.
Đây không phải là niềm
vui của người lính bị dồn ra trận. Đi vào chỗ chết, đi vào cuộc chiến người Việt
bắn giết người Việt, làm sao vui được. Đây là niềm vui tuyên huấn, niềm vui cộng
sản. Niềm vui của những người đã đánh tráo được tên gọi cuộc nội chiến tương
tàn thành cuộc thánh chiến hào hùng “Chống Mĩ cứu nước”. Niềm vui đã đưa được cả
nước vào cuộc nội chiến ngùn ngụt hận thù giai cấp, người Việt vô sản say mê bắn
giết người Việt tư sản. Người Việt nghèo khổ cuồng dại bắn giết người Việt có của.
Niềm vui khi thấy hai anh em ruột thịt cùng cha cùng mẹ ở hai chiến tuyến ý thức
hệ xả súng vào ngực nhau, quăng lựu đạn vào đầu nhau!
Quân đội Mĩ vào tham
chiến bên những người lính Việt Nam Cộng hòa có làm cho cuộc nội chiến do những
người cộng sản tiến hành chựng lại, tốc độ khuất phục, thâu tóm dải đất miền
Nam của họ chậm lại nhưng không làm thay đổi bản chất cuộc nội chiến vì ý chí cộng
sản dùng bạo lực khuất phục dải đất miền Nam không thay đổi. Không thay đổi ý
chí cộng sản dùng máu người Việt để thống nhất trong tay họ đất nước Việt Nam
mà chính họ đã chia cắt.
Nếu thực sự là cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước thì khi quân đội Mĩ giảm vai trò, giảm sự có mặt
trong cuộc chiến, mức độ ác liệt của cuộc chiến phải giảm và khi quân đội Mĩ
rút hết khỏi Việt Nam thì cuộc chiến phải kết thúc. Không! Từ năm 1970, Mĩ thực
hiện Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội Mĩ giao lại vai trò chủ thể chiến trường
cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, quân đội Mĩ không trực tiếp tham chiến nữa, họ
chỉ trợ chiến, yển trợ hỏa lực. Khi quân đội Việt Nam Cộng hòa độc lập tác chiến
trên các mặt trận, trực tiếp đối đầu với những người lính Việt Nam phía bên kia
là lúc diễn ra những trận đánh đẫm máu nhất, những người lính Việt Nam ở cả hai
phía, Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Cộng sản chết trận nhiều nhất. Những điểm
quyết chiến ở Snun, Mỏ Vẹt, biên giới Việt Nam – Campuchia, ở đường 13, ở đường
9 – Nam Lào, ở thành cổ Quảng Trị trở thành những cái cối xay thịt nghiền nát hết
trung đoàn, lữ đoàn lính Việt Nam này đến trung đoàn, lữ đoàn lính Việt Nam
khác của cả hai phía.
Từ khi cuộc nội chiến
bùng nổ, chưa bao giờ những người lính Việt Nam Cộng hòa và những người lính Việt
Nam Cộng sản chết nhiều như trong chiến dịch đường 9 – Nam Lào đầu năm 1971.
Từ khi cuộc nội chiến
nổ ra, chưa bao giờ những người lính Việt Nam Cộng hòa và những người lính Việt
Nam Cộng sản chết nhiều như trong trận hai bên giành giật nhau thành cổ Quảng
Trị hè thu năm 1972, thời gian miền Trung bước vào mùa mưa xối xả. Mưa ở Quảng
Trị năm 1972 trở thành những trận mưa máu. Máu nhào đất thành cổ Quảng Trị
thành bùn nhão nhoét, đỏ lòm và tanh tưởi. Dòng sông Thạch Hãn ngàn đời trong
xanh bỗng trở thành dòng sông máu, loang đỏ máu lính Việt Nam. Lính chết không
kịp chôn. Quân số bổ xung liên tục mà không còn lính sống để chôn lính chết.
Người lính Lê Bá Dương may mắn sống sót đã viết về những đồng đội không có người
vớt lên chôn cất còn mãi mãi nằm lại với sông Thạch Hãn: Đò lên Thạch Hãn xin
chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm / Có tuổi hai mươi thành sóng nước / vỗ
vô bờ mãi mãi ngàn năm.
Nước lênh láng ba phần
tư diện tích trái đất được nhà thơ Xuân Diệu coi đó là nước mắt đau khổ của
loài người: Trái đất ba phần tư nước mắt / Trôi đi như giọt lệ giữa không
trung. Ba phần tư lịch sử Việt Nam cũng là lịch sử chiến tranh, là máu và nước
mắt. Trong những cuộc chiến tranh liên miên đó chưa có cuộc chiến tranh nào mà
người Việt lại quyết liệt, say mê giết người Việt như trong cuộc nội chiến do
những người Cộng sản Việt Nam phát động giữa thế kỉ hai mươi.
Năm 1973, quân đội Mĩ
rút khỏi Việt Nam thì những người Cộng sản càng đẩy mạnh cuộc nội chiến để chỉ
hai năm sau họ thâu tóm hoàn toàn miền Nam vào ngày 30. 4. 1975.
Là cuộc nội chiến nên
đích cuối cùng những người lính Việt Nam Cộng sản đến không phải là tổng hành
dinh quân đội Mĩ mà là dinh Độc lập, nơi làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng
hòa, người quản lí một nửa lãnh thổ Việt Nam, người lãnh đạo một nửa dân số Việt
Nam.
Là cuộc nội chiến nên
lá cờ những người lính Việt Nam Cộng sản hạ xuống ở dinh Độc lập ngày 30. 4.
1975 không phải là lá cờ Mĩ mà là lá cờ Việt Nam Cộng hòa, lá cờ quốc gia của một
nửa lãnh thổ Việt Nam, lá cờ Tổ quốc của một nửa dân tộc Việt Nam.
Những người Cộng sản
Việt Nam đã cắt đôi đất nước Việt Nam, chia đôi dân tộc Việt Nam rồi họ lại lấy
máu của chính dân tộc Việt Nam để thống nhất đất nước, để họ nghiễm nhiên thống
trị cả nước không cần lá phiếu bầu chọn của người dân! Những người Cộng sản Việt
Nam coi đó là chiến thắng vĩ đại của họ. Còn với dân tộc Việt Nam đó là keo
thua đau đớn tức tưởi! Với những người dân miền Nam đã được sống trong tự do
dân chủ, nay mất cả quyền con người, quyền công dân, không được quyền bầu chọn
người quản lí đất nước, người lãnh đạo dân chúng, còn cái thua nào đau hơn!
Điểm lại những sự kiện
chính của cuộc chiến tranh do những người cộng sản Việt Nam phát động từ 1960 đến
ngày kết thúc 30. 4. 1975 để thấy rõ cuộc chiến này dứt khoát không phải là cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc mà chỉ là cuộc nội chiến đẫm máu nhất, tội lỗi
nhất trong lịch sử Việt Nam để đảng Cộng sản Việt Nam giành quyền thống trị cả
nước, nô dịch cả dân tộc Việt Nam.
Bản chất cuộc nội chiến
càng lộ rõ ngay cả khi cuộc chiến đã kết thúc. Nếu cuộc chiến tranh kết thúc
ngày 30. 4. 1975 là “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” thì cuộc chiến
tranh đó trước hết phải giải phóng người dân miền Nam khỏi sự nô dịch của đế quốc
Mĩ như hệ thống tuyên giáo cộng sản vẫn ra rả tuyên truyền, để người dân miền
Nam trở về với dân tộc Việt Nam yêu thương. Đất nước thống nhất trước hết phải
thống nhất trong tình cảm, ý chí người dân. 40 năm đã qua, sự thống nhất đó vẫn
chưa hề có. Cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 chỉ giải phóng đất đai
miền Nam để người thắng cuộc thâu tóm, thống trị cả nước, còn người dân miền
Nam vẫn bị người thắng cuộc coi là thù địch. Chỉ là cuộc nội chiến, người Việt
Cộng sản làm chiến tranh để tiêu diệt người Việt Cộng hòa. Người Việt Cộng hòa
có may mắn thoát chết trong cuộc nội chiến khốc liệt, tàn bạo đó cũng bị loại bỏ
khỏi sinh hoạt xã hội, trở thành những người tù không án, bị giam cầm mút mùa
không thời hạn trong những nhà tù hà khắc.
Trước 30. 4. 1975 một
ngày, Đô đốc Elmo Zum Walt Jr., Tư lệnh hải quân Mĩ ở Việt Nam điều một máy bay
vận tải C130 từ Philippines đến Tân Sơn Nhất đón cả gia đình Đô đốc Trần Văn
Chơn của Hải quân Việt Nam Cộng hòa sang Mĩ tị nạn. Đô đốc Trần Văn Chơn đã từ
chối ra đi để được ở lại làm người dân Việt Nam sống cuộc đời bình yên với đất
nước yêu thương đã hết chiến tranh. Nhưng những người Cộng sản thắng cuộc trong
cuộc nội chiến vẫn coi những người như Đô đốc Trần Văn Chơn là đối tượng phải
loại bỏ của cuộc nội chiến, họ nào có để cho ông được yên. Đô đốc Trần Văn Chơn
ở tuổi ngoài sáu mươi bị tống vào nhà tù với tên gọi trại tập trung mỏi mòn mười
ba năm trời.
Những ngày ngục tù
tăm tối, cực khổ, Đô đốc Trần Văn Chơn mới nhận ra rằng nhà nước Việt Nam Cộng
sản chỉ là nhà nước của một giai cấp hão huyền nào đó chứ không phải nhà nước của
dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam chân chính dù yêu nước nhưng không Cộng sản
cũng không thể sống bình yên trên đất nước thương yêu của mình. Ra tù dù đã
ngoài bảy mươi tuổi, chân đã yếu, mắt đã mờ, đã gần đất xa trời, dù muốn được gửi
nắm xương tàn vào đất Mẹ Việt Nam bên ông bà, tổ tiên, Đô đốc Trần Văn Chơn
cũng phải ngậm ngùi gạt nước mắt ra đi, tìm đến đất nước xa lạ nhưng mở lòng
bao dung đón nhận ông. Vài triệu người Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi trong nước
mắt như Đô đốc Trần Văn Chơn là nỗi đau, nỗi uất hận khó nguôi ngoai của dân tộc
Việt Nam. Suốt bốn ngàn năm lịch sử có khi nào dân tộc Việt Nam bị thua đau đến
như vậy!
Ngày 30. 4. 1975 là
ngày chiến thắng vĩ đại của những người cộng sản chỉ biết có giai cấp, không biết
đến dân tộc nhưng là ngày thua đau của cả dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã
bị thua đau, bị chết mòn trong cuộc nội chiến núi xương sông máu nay lại bị đòn
thù giai cấp đánh vào trái tim con người, đánh vào đạo lí xã hội, đánh vào lẽ sống
còn của dân tộc làm cho dân tộc li tán tan tác và ngày 30. 4. 1975 là ngày khởi
đầu của cuộc đại li tán dân tộc.
Ngày 30. 4. 1975 sau
thoáng vui nông nổi mau qua đi, người dân liền phải nhận ra một sự thật cay đắng.
Sự thật của lịch sử trớ trêu: Cái hung tàn thắng cái văn minh. Sự thật trắng
tay của người dân. Bao thế hệ người dân Việt Nam đổ máu trong cuộc chiến đấu
cho đất nước độc lập, cho người dân được tự do. Cuộc chiến kết thúc, trở về xã
hội dân sự mới lồ lộ ra một thực tế: Tự do của người dân không có mà độc lập của
đất nước cũng không! Quyền yêu nước của người dân cũng bị tươc đoạt. Đất nước
ngày càng phụ thuộc và mất dần vào tay kẻ thù truyền kiếp của lịch sử Việt Nam
nhưng là đồng chí cùng lí tưởng, cùng ý thức hệ, là bạn vàng bốn tốt của đảng
CSVN!
Phạm Đình Trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét