LS Lê Trọng Quát
Hơn
ba năm sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hình ảnh kinh hoàng của
những vụ tàn sát hàng triệu sinh mạng trên gần khắp địa cầu đã thôi thúc
mọi người phải xác quyết và khẳng định thượng tôn quyền của con người:
sống tự do, an toàn, phẩm cách được tôn trọng, sự phát triển và thăng
tiến cá nhân được khuyến khích.
Với sự đồng tình
tuyệt đối, ngày 10 tháng 12, 1948, Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thông
qua Bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền. Quyền thiêng liêng của con người
đã được thế giới chính thưc công nhận. Và từ đấy, nhân quyền lần lượt
hiện diện trong Hiến pháp của các quốc gia thành viên trước đấy chưa
quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, vài ngoại lệ còn sót lại với 5 chế
độ Cộng sản. Bất hạnh thay, trong số này có nhà nước Cộng hòa ã hội chủ
nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN)!
Giữa lúc trong gần
hai trăm quốc gia lớn nhỏ, Hiến pháp và nhân quyền khăng khít với nhau
như hình và bóng thì tại CHXHCNVN cái gọi là « hiến pháp » nhất định
không chấp nhận nhân quyền, bị xem như vũ khí của «thế lực thù địch».
Đòi hỏi nhân quyền sẽ bị trừng trị, đánh đập. Tranh đấu cho nhân quyền
sẽ chắc chắn vào tù. Tách riêng một thiểu số đảng viên Cộng sản, 90
triệu người Việt còn lại bị xem là «thế lực thù địch» và «cảm tình viên »
của thế lực thù địch, được canh chừng cẩn mật. Mới hai năm trước đây,
thừa dịp Nhà nước Cộng sản «cho» dân bày tỏ ý kiến tu chính Hiến pháp,
dân chúng không mấy tin nhưng vẫn đề nghị một số tu chính nhằm công nhận
một số dân quyền và nhân quyến căn bản, họ đã hoàn toàn thất vọng.
Cộng
sản còn, dân quyền và nhân quyền thực sự không có chỗ đứng trong Hiến
pháp. Vì vậy, không có cách nào hơn để dân quyền và rộng hơn quyền
thiêng liêng của con người được công nhận và triệt để tôn trọng, là
tranh đấu, tranh đấu cho đến cùng chứ không thể «xin cho».
Một
mai, trong sự thành lập tân chế độ Hậu Cộng sản, nhân quyền đương nhiên
là một mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập hiến đặng hoàn thành một
Hiến pháp trong đó nhân quyền và dân quyền sẽ được khai triển và ghi
khắc như một đảm bảo vững chắc cho các quyền tự do của mọi công dân Việt
Nam từ Bắc chí Nam và cho nền dân chủ của nước Việt Nam tương lai, hòa
bình, tiến bộ.
Hiến pháp và Nhân quyền sẽ không
còn là hai đối thủ như dưới thời CHXHCNVN. Hiến pháp và Nhân quyền sẽ
quyện lại với nhau thành nền tảng chính trị của một thời đại mới huy
hoàng của dân tộc Việt Nam.
Hiến pháp và «hiến pháp»
Mọi
quốc gia đều có Hiến pháp: một bản văn quan trọng nhất thông thường
trình bày đúc kết nền tảng triết lý chính trị của quốc gia, xác định tổ
chức các lãnh vực hành pháp, lập pháp, tư pháp qua các định chế liên hệ,
các chính sách quốc gia căn bản về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục, các quyền và bổn phận của công dân, các nhân quyền phổ cập,
sự điều hợp giữa các cơ cấu quốc gia…
Thế nhưng
không phải Hiến pháp nào cũng giống nhau giữa các quốc gia. Qua giòng
lịch sử thế giới, chúng ta nhận thấy có Hiến pháp của các quốc gia theo
chế độ Quân chủ chuyên chế, Quân chủ lập hiến, chế độ Cộng hòa, chế độ
Cộng sản với những danh xưng khác nhau (Cộng hòa xã hội Xô Viết gọi tắt
Nga Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, Dân chủ Nhân dân các nước Đông Âu
cũ và riêng Cộng sản Việt Nam với hai danh xưng kế tiếp VN Dân Chủ Cộng
Hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa VN).
Riêng
Vương quốc Anh, một nước dân chủ kỳ cựu nhất thế giới, đã từ 800 năm nay
phát triển những qui tắc có tính cách hiến định và luật hành chánh khởi
nguồn từ hiến chương The Magna Carta (1215) mà Nhà vua John của Anh
quốc buộc phải ký dưới áp lực của một số quí tộc chống lại chính sách
của Nhà vua áp đặt sưu thuế nặng nề, hạn chế tự do cá nhân. Hiến chương
The Magna Carta ban hành những điều có thể gọi là dân quyền và nhân
quyền đầu tiên trong lịch sử Anh Quốc. Các luật lệ kế tiếp được nghị
viện thông qua tạo thành một thứ «Hiến pháp không thành văn»
(constitution non écrite) độc đáo.
Trong lúc ấy,
tám thế kỷ sau, còn có những Hiến pháp «thành văn» rõ ràng, được công
bố long trọng, ghi chú đầy đủ các điều khoản và nguyên tắc dân chủ, nhân
quyền, nhưng lại không được áp dụng hoặc chỉ được áp dụng phần nào.
Nhưng trên tất cả các sự khác biệt, Hiến pháp Cộng hòa Xã hội chủ Nghĩa
Việt Nam năm 2013 đã tự tạo thành một hiện tượng khác thường sánh với
non hai trăm nước không cộng sản, khác thường vì:
1.
ngay trong «Lời nói đầu» của bản Hiến pháp, các nhà lập hiến đã không
dè dặt xác quyết: « …………………………Thể chế hóa Cương Lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ………………….. » nghĩa là biến
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thành thể chế chính trị của quốc
gia!
2. tiếp theo là điều 4 quái dị đặt Đảng
Cộng sản trên đầu quốc gia dân tộc: «Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiền
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của Nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng- là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội………………………………………………………………………………
…. ».
Nhân
quyền và dân quyền không thể và không còn chỗ đứng trong một Hiến pháp
như vậy, cưỡng đặt một quốc gia dưới sự lãnh đạo của một đảng phái, lại
còn tự nhận lệ thuộc một chủ nghĩa ngọai lai và tệ hại hơn nữa, một chủ
nghĩa đã bị đào thải ngay trong hầu hết các nước đã áp dụng nó và phải
trả giá đắt.
Tổng cộng hơn một trăm triệu sinh
linh, theo tổng kết nghiêm chỉnh nhất của các tổ chức độc lập theo dõi
tiến trình phát triền của các quốc gia thuộc khối Cộng sản Quốc tế kể từ
cuộc cách mạng Bôn-sê-vít năm 1917 ở nước Nga và lan rộng nhiều vùng
trên địa cầu cho đến ngày Đế quốc Nga Xô và các chế độ chư hầu ở Đông Âu
sụp đổ.
Nhân quyền
Trước
khi tóm lược lịch sử của nhân quyền từ khi nhiều quốc gia đã thành hình
trên địa cầu, thiết tưởng cần nhắc lại rằng nhân quyền không phải là
một ân huệ của bất cứ quyền lực nào ban phát cho con người. Trong nhiều
hệ thống luật pháp hiện đại, ngay từ khi còn là một bào thai thành hình
trong bụng mẹ, nó đã có quyền trong di sản của người thân dành cho nó
khi nó chào đời. Như từ ngữ đã rõ ràng, nhân quyền hay quyền của con
người, là một quyền tự nhiên, thiết thân với con người. Từ mấy ngàn năm
trước, các nhà triết học thời cổ La mã – Hy lạp,
Platon, Marc Aurèle… cũng như các văn bản tôn giáo, văn chương, triết
học qua các thời đại đều không nói khác. Thế nhưng cần phải nhắc lại vì
vào thế kỷ thứ 21 này, vẫn có một số rất ít chế độ chính trị, đứng đầu
là các chế độ Cộng sản còn sót lại sau cơn Đại hồng thủy 1989-1991 quét
sạch Khối Cộng sản Nga Xô và Đông Âu, các chế độ Cộng sản này tiếp tục
xem nhân quyền như một đặc quyền của họ mà dân chúng phải «xin cho».
Trước
chính sách bạo hành dân chúng mà Việt Nam XHCH là một trường hợp điển
hình, có vài quốc gia can thiệp một cách lịch sự nhưng gặp phải hoặc là
lời hứa hẹn sẽ xem xét, hoặc là phản đối và xem sự can thiệp như một
hành vi xen lấn vào chủ quyền của quốc gia, hay kỳ quái hơn nữa bảo rằng
« nhân quyền của nước tôi không phải như vậy nên không có gì phải quan
tâm ……. » ! Lẽ phải và lương tri không thể nào chấp nhận những luận cứ
ngoan cố và vô ý thức như vậy khi quyền của con người đã được công nhận
từ nhiều ngàn năm lịch sử, kể từ khi nhiều quốc gia và nhiều nền văn
minh đã thành hình trên quả đất.
Thật vậy, năm
539 trước kỷ nguyên Thiên Chúa, Cyrus Đại Đế (Cyrus le Grand) ở Ba Tư
(Perse) đã tạo nên tiền lệ nhân quyền. Sau khi chiếm Babylone, bằng hành
động rất ngoạn mục, Nhà vua giải thoát tất cả người nô lệ và phán rằng
tất cả mọi người đều có quyền lựa chọn tôn giáo của mình, một thứ quyền
rất quan trọng mà mãi đến bây giờ, hơn hai mươi lăm thế kỷ sau, Cộng sản
vẫn không thực tình tôn trọng và trên thực tế vẫn sử dụng mọi cách để
chèn ép các tôn giáo, cướp đoạt tài sản các giáo hội. Bản mẫu ghi khắc
tuyên cáo của Cyrus Đại đế còn được lưu giữ và quốc gia Iran tặng cho
Liên Hiệp quốc năm 1971 và LHQ đã chuyển ngữ ra tất cả các ngôn ngữ
chính thức. Tuyên cáo của Cyrus Đại Đế đã được công nhận là Tuyên ngôn
Nhân quyền đầu tiên của lịch sử loài người.
Mười
tám thế kỷ sau, Hiến chương The Magna Carta 1215 vừa là khuôn mẫu một
Hiến pháp như đã ghi trên, đồng thời là một tuyên ngôn nhân quyền với sự
ban bố những quyền đặc biệt tiến bộ của con người vào thời bấy giờ như
quyền của giáo hội (công giáo) sinh hoạt tự do, chính quyền không được
can thiệp vào sự sinh hoạt nội bộ của giáo hội, quyền của mọi người dân
tự do sở hữu tài sản và di sản và không bị đánh thuế quá nặng, quyền của
mọi người được xét xử đúng pháp luật và bình đẵng trước công lý……..
Đúng 800 năm sau Hiến chương này, con người Việt Nam dưới chế độ Xã hội
chủ nghĩa hiện thời có được hưởng những quyền thiết yếu ấy không ?
Cũng
tại Vương quốc Anh, năm 1628, Nghị viện đã thông qua dưới triều vua
Charles Đệ Nhất, một loạt các quyền tự do dân sự làm nền tảng cho sự
phát triển nhân quyền mà quan trọng nhất là Qui tắc Habea corpus được
thi hành năm 1679 dưới thời Charles Đệ nhị.Theo qui tắc quan trọng này,
mọi sự giam giữ người phải được phép của vị thẩm phán để bảo đảm cho
quyền tự do cá nhân.
Qui tắc Habea corpus sẽ
được liên tục áp dụng tại nhiều quốc gia cho đến bây giờ với vài chi
tiết áp dụng khác nhau mà thôi. Một hế kỷ sau, nhân quyền lại được thể
hiện rõ nét trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 4 tháng 7, 1776 của Hiệp
chúng quốc Hoa Kỳ và trong Hiến pháp 1787 của quốc gia này.
Cuộc
cách mạng 1789 của Pháp cũng đề cao nhân quyền trong bản «Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền», khẳng định rằng: «Mọi người sinh ra và lớn lên
tự do và bình đẳng trước pháp luật» và nhân quyền là những quyền bất
khả triệt tiêu (droits imprescriptibles) của con người có giá trị phổ
cập trên toàn cầu.
Nhưng bước đột phá cuối cùng
mang tính chính thức là bản «Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền» ( la
Déclaration des Droits de lHomme – The Universal Declaration of Human
Rights ) được Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp nhận ngày 10 tháng 12,
1948. Từ đấy, hai Công ước Quốc tế được sọan thảo và chấp thuận, kết hợp với bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền thành Bộ Luật Quốc tế Nhân quyền ( Intrnational Bill of Human Rights):
1. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Hai
công ước này được thông qua năm 1966 và có hiệu lực thi hành năm 1976
sau khi được một số quốc gia chấp nhận và phê chuẩn. Nhiều quốc gia còn
tiếp tục phê chuẩn và rất nhiều văn kiện kế tiếp khai triển các công ước
trong nhiều lãnh vực từ những quyền tự do cá nhân căn bản cho đến quyền
dân tộc tự quyết, quyền lao động, sự cấm chỉ tra tấn. v.v…
Nếu
quả thật mục đích của các tác giả đa quốc gia và đầy thiện chí của Bộ
Luật Quốc tế nhân quyền đáng kính phục vì lý tưởng tự do, dân chủ, vì sự
tôn trọng giá trị siêu việt của con người, vì lòng mong muốn xây dựng
một thế giới an lạc hòa bình sau hai cuộc thế chiến gây tang tóc cho một
phần nhân loại thì tiếc thay, thực tế lại khá phũ phàng. Một số quốc
gia vẫn không áp dụng các quyền tự do căn bản của con người dù đã ký kết
vào tất cả ba văn bản ghi trên của Bộ Luật Quốc tế Nhân quyền. Thậm chí
có thành viên của Hội đồng Nhân quyền,
cơ quan
tối cao của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền, lại là quốc gia vi phạm nhân
quyền công khai và trắng trợn: trường hợp CHXHCNVN là một!
Vượt
quá các quốc gia, quyền của con người lại đang phải trải qua một thử
thách mới do sự mù quáng của một số tín đồ cực đoan của đạo Hồi, một tôn
giáo lớn có mặt gần khắp địa cầu. Quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí,
tự do tín ngưỡng đang bị đe dọa nghiêm trọng ngay trong lòng các quốc
gia Tây phương như vụ tàn sát các ký giả của tờ báo Charlies Hebdo ở
Pháp vừa qua và tiếp theo, tại thủ đô Đan Mạch với thiệt hại nhẹ hơn vì
hung thủ không dột nhập được vào hội trường, nơi đang diễn ra một buổi
thảo luận về quyền tự do phát biểu, tự do báo chi qua vụ Charlies Hebdo ở
Pháp.
Nhân quyền còn bị chà đạp man rợ hơn nữa
tại vùng ranh giới Iraq và Syrie. Một nhóm cực đoan chiếm cứ một vùng ở
đây, lợi dụng cuộc chiến chống chính quyền Syrie tại vùng tranh chấp
này, đã thành lập một «Quốc gia Hồi giáo Iraq- Syrie » ( Islamic State
of Irak and Syria) áp dụng những cực hình làm lu mờ những cực hình của
thời Trung cổ, như chặt đầu, thiêu sống nạn nhân mà một số bị chúng kết
tội «tà đạo» vì không cùng một tôn giáo với chúng.
Thiết
tưởng trong những vụ được gọi là khủng bố của Hồi giáo cực đoạn đã và
đang xẩy ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở Trung Đông, Phi Châu, Âu Châu, Úc,
Gia Nã Đại, phần lớn nguyên do bắt nguồn từ thái độ hận thù của khuynh
hướng Hồi giáo cực đoan đối với đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, trở
thành đố kỵ và dị ứng với văn minh Tây phương. Vụ quốc gia Israel chiếm
cứ lãnh thổ của Palestine mà đa số dân chúng theo đạo Hồi, kéo dài hơn
nữa thế kỷ nay trước sự bất lực của cộng đồng thế giới càng khiến cho
tâm lý hận thù thêm nặng nề.
Tính mạng của con
người, quyền sống tự do, mưu cầu hạnh phúc bị thường xuyên đe dọa. Nhân
quyền không còn được coi trọng nữa trong bối cảnh của hận thù tập thể,
của cuồng tín mù quáng làm lu mờ lý trí, đánh mất lương tâm và lòng nhân
đạo.
Hiến pháp và Nhân quyền
Nếu
lịch sử của nhân quyền đang còn bị hoen ố bởi một số chế độ chính trị
lỗi thời, lạc hậu đi ngược trào lưu dân chủ tự do của thế giới và bởi sự
cuồng tín mù quáng của một số quần chúng trong vài quốc gia kém mở mang
thì ngược lại, nhân quyền, nói chung, có một vị trí đáng kể trong Hiến
pháp của đại đa số quốc gia và ngay cả trong sinh hoạt dân chúng qua
những tổ chức xã hội dân sự.
Trong mọi Hiến pháp
của các nước tự do dân chủ, hầu hết các chương mục quan trọng đều thể
hiện ý niệm nhân quyền, từ nền tảng triết lý chính trị đến các chính
sách quốc gia văn hóa, giáo dục, xả hội, dân sinh, kinh tế, chính trị.
Tất cả đều phải đồng qui về một mục tiêu: phục vụ người dân, vì có dân
mới có Quốc gia, Nhà Nước, một nguyên lý đã được đề cao gần 2400 năm
trước: «Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh» (Mạnh Tử), chứ không
phải đợi đến các chính khách, các luật gia Hiến pháp học bây giờ. Và
quyền công dân chỉ là quyền của con người, một nhân quyền được kiến trúc
trong khuôn khổ một xã hội đã được tổ chức thành một quốc gia.
Sự
hiện diện của đầy đủ nhân quyền trong một Hiến pháp chứng tỏ mức độ cao
của nền dân chủ của quốc gia ấy. Ngược lại, sự vắng bóng nhân quyền hay
sự thiếu sót bảo đảm một cách minh thị nhân quyền trong một Hiến pháp
tố cáo một chế độ chính trị mờ ám nếu không phải là độc đoán, độc tài.
Các
Hiến pháp của các quốc gia dân chủ có thể khác nhau về mô hình của thể
chế nhưng nội dung về chất lượng dân chủ, tự do, nhân quyền không khác
biệt nhau đáng kể. Riêng về Việt Nam Cộng hòa trước 1975, chúng ta có
hai Hiến pháp của Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, 1956 và 1967, đều theo
Tổng thống chế (régime présidentiel). Dù trong hoàn cảnh bạo loạn và
chiến tranh do Cộng sản phát động, hai Hiến pháp vẫn thể hiện đúng mức
dân chủ và nhân quyền. Vài hạn chế vì lý do an ninh và chống Cộng thực
ra quá ít so với tình thế lúc bấy giờ.
Nói
chung, dù ở trong mô hình nào kể trên, Hiến pháp của các nước dân chủ
hiện đại cũng dành cho nhân quyền một vị trí hàng đầu thể hiện trong các
quyền công dân căn bản bên cạnh những điều khoản khác về thể chế chính
trị, các chính sách quốc gia, tổ chức công quyền, sự hoạt động của các
định chế quốc gia.v.v…
Mọi đạo luật của cơ quan
lập pháp, mọi quyết định của hành pháp như sắc lệnh, nghị định.v.v… có
thể bị Viện Bảo hiến hủy bỏ nếu vi phạm một điều khoản hay ngay cả tinh
thần của Hiến pháp. Tại Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện Liên bang hành xử thẩm
quyền của Viện Bảo hiến như vừa kể trên, nước Pháp và Việt Nam Cộng Hòa
đều có một Viện Bảo hiến riêng biệt mà tổ chúc gần giống nhau. Một điều
khỏan luật lệ vi phạm nhân quyền trái với Hiến pháp đều bị xem là vi
hiến, phải bị hủy bỏ.
Nhân quyền và quyền dân tộc tự quyết
Nhân
quyền cũng là lẽ sống của một con người. Tôn trọng nhân quyền là nhìn
nhận giá trị siêu việt của con người mà không một thế nhân nào, không
một quyền bính nào có thể tước đoạt. Nhân quyền không phải là một vật
«xin, cho». Ròng rã bốn mươi năm nay, cuộc tranh đấu đòi lại nhân quyền
không lúc nào ngưng nghỉ, chỉ khi yếu, khi mạnh nhưng khí thế mãnh liệt
hơn với thời gian.
Vì sự sợ hãi cá nhân đã
nhường bước cho lòng can đảm tập thể. Vì phần lớn cộng đồng Quốc tế đã
can thiệp với chính quyền Cộng sản. Nhưng tiếc thay, Cộng sản Việt Nam
vẫn ngoan cố chối cãi hoặc giải quyết vài trường hợp để khỏi làm mất mặt
một vài quốc gia mà chúng mang ơn. Kinh nghiệm ê chề này chắc chắc sẽ
kéo dài vô tận. Tiềm lực quốc gia suy yếu giữa
lúc
hiểm họa ngoại xâm ngày càng gia tăng. Trước thế nước như vậy, chiến
lược tranh đấu cho nhân quyền phải thay đổi và phải lồng vào trong cuộc
tranh đấu giành lại quyền tự quyết của dân tộc. Vì sự sống chung nhân
quyền với một chế độ độc tài toàn trị là một nghịch lý tuyệt đối. Vì chỉ
khi nào dân tộc đã giành lại được quyền tự quyết của mình để thiết lập
một thể chế chính trị dân chủ, tự do thực sự thì nhân quyền mới được áp
dụng và tôn trọng đúng mức, thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của
con người, thể chất và tâm linh.
Paris, tháng 3, 2015
L.T.Q.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét