CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM PHẦN IIIa
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
ĐIỀU KIỆN NỘI BỘ
Thật ra thì, vì sự
minh bạch của vấn đề trình bày, nên, trong các phần trước, có nhiều điều kiện nội
bộ đã được đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ xem lại toàn thể các điều kiện nội
bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các điều kiện đã bàn đến. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ
gồm vào phần này những điều kiện phát sinh ra do sự liên lạc của Việt Nam với
các phần tử khác trong xã hội Đông Á, và với các quốc gia đang tìm phát triển.
Sự liên lạc, với các quốc gia trong xã hội Đông Á, có thể xem là điều kiện nội
bộ của chúng ta, bởi vì chúng ta là một phần tử trong xã hội đó. Sự liên lạc,
giữa chúng ta và các nước đang tìm phát triển, có thể xem là điều kiện nội bộ,
bởi vì trong một thế giới do Tây phương và Nga Sô phân chia ảnh hưởng như ngày
nay, chúng ta và các nước đang tìm phát triển, đều ở vào những hoàn cảnh có nhiều
điểm tương đồng.
Thật đúng ra thì, trong phần này chúng ta sẽ phân tích tất cả
các điều kiện đã, hay có thể, gây cho chúng ta một cái vốn thuận hay một cái vốn
nghịch, trong sự thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc của chúng ta.
Liên lạc với Trung Hoa.
Từ khi lập quốc, năm
939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến thành một thuộc địa của đế
quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối chín trăm năm lịch sử của Dân Tộc Việt
Nam.
Hai sự kiện đó là sự liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam
tiến.
Trong lịch sử bang
giao, giữa chúng ta và Trưng Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi
nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung
Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác
mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên
kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của
mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai
quan niệm trên.
Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập
của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên
Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo
quân, do đường thủy và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.
Quan niệm Trung Quốc.
Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không
lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những
lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa,
thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với
Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn
không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một
ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm
mất.
Trong 900 năm, từ năm
939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu
thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan
chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần Nhà Nguyên, một
lần nhà Minh và một lần Nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có
nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền
thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và
kinh tế ấn định: Lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của
các Tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các
đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định
của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít
ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc
Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gửi quân sang giúp một nước cùng một
văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa
đáng lý ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia đôi Việt
Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực
sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945,
dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng vì
lý do trên.
Xem thế đủ biết rằng,
đối với Dân Tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên.
Họa xâm lăng của
Trung Hoa vừa tạm ngưng, vì sự tấn công của Tây phương, là chúng ta lọt ngay
vào sự thống trị của đế quốc Pháp.
Ngày nay, ách thực dân vừa mới cởi được, nhưng cái họa xâm
lăng đối với chúng ta không thể vì thế mà thuyên giảm. Bởi vì họa xâm lăng, do
vị trí địa dư của chúng ta và tình trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ
hai yếu tố đó chưa thay đổi được thì họa xâm lăng vẫn còn.
Tâm lý thuộc quốc.
Họa xâm lăng đe dọa
Dân Tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở
thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử
ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.
Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa
chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta
và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối
với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho
sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã
đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà Dân Tộc đã thực
hiện được, Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán
xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những
nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một
chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: Chúng ta là
một Dân Tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không
phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp
vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của Dân Tộc chúng ta, đã sớm
phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công
cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với
một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ
đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng
những biện pháp dồi đào và hữu hiệu hơn.
Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng
vào đời sống của Dân Tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng
ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường,
một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam.
Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều
Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại
giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các
nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nổi không khí tâm lý
thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động
ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng
ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của Nhà Nguyễn. Nhưng
Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa
cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam.
Các Sứ Bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích
điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung
Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại
giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.
Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến
thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình
bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại
giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự
thất bại nặng hơn nhiều.
Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một
chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.
Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ
khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào
cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và
hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.
Lỗi lầm trước đã như vậy đó.
Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại
xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được
sáu lần, chỉ có lần thứ sáu Nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm,
và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong
hơn tám mươi năm.
Chống ngoại xâm.
Vì vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng
trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các Triều Đại Việt Nam
không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng
của Trung Hoa, thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại
giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của Dân Tộc, thay vì mở cho chúng ta được
nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh
giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng
ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không
đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.
Chính sách chống ngoại xâm.
Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục
như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta
trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa,
nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?
Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của
Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So
sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, thì như thế là đương phải với mục đích
đương nhiên, chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là
những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều
đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước
nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như
biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước
ta.
Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị
trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết
và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại
Trung Hoa: Nhà Tống, Nhà Nguyên cũng như Nhà Minh, Nhà Thanh, chúng ta phải
nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập
rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.
Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại
xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập
đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các
cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.
Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn
toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của
nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và Dân Tộc. Đồng thời, áp dụng một chính
sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc
gia được nhiều người thấu triệt.
Nếu ý thức quốc gia và Dân Tộc được ăn sâu vào tâm não của
toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm
lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng
ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường
của cả một Dân Tộc.
Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo
thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng.
Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói
trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen
biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người
thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi
vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được.
Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc
xâm lăng.
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn
dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như
chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và
ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu
hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát
huy ý thức quốc gia và Dân Tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn
đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế
và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được.
Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ
tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành
một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử dụng
như một khí cụ.
Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc
quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu
triệt các vấn đề căn bản của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc
bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa
tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì,
tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợikhí cho kẻ ngoại
xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét
người lãnh đạo họ và hướng về bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng
về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các
quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những Dân Tộc sống tự do mới
chống được ngoại xâm.
Riêng về Dân Tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của
chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước
đó, Nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng
được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và
Dân Tộc trong nhân dân.
Ngược lại, mấy lần Dân Tộc thắng được ngoại xâm, từ Nhà Trần
đánh đuổi Mông Cổ, đến Nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn
Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của
toàn dân.
Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia
là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính
thể thích nghi cho Dân Tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn
căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ
được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta,
cùng với trình độ phát triển của Dân Tộc.
Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải
như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó
không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất
rõ rệt.
Công cuộc Nam tiến của Dân Tộc Việt Nam
cuộc Nam tiến và sự bang giao với Trung Hoa là trung
tâm điểm của 900 năm lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc năm 939, đến lúc lâm vào
sự thống trị của đế quốc Pháp.
Thật ra, chính vì áp lực, quá mạnh bạo của nước Trung Hoa to
lớn, và, vì sự sống còn của Dân Tộc, mà chúng ta bị dồn vào thế Nam tiến. Bị đặt
vào những điều kiện lịch sử và địa dư, như những điều kiện mà chúng ta phải
đương đầu, ngay lúc vừa lập quốc, một Dân Tộc quen sống về nông nghiệp như
chúng ta, có thể đưa công cuộc bành trướng của chúng ta theo một hướng khác
không?
Vì sao mà trong 900 năm, chúng ta đi dọc theo bờ biển từ Bắc
chí Nam, mà không lúc nào chúng ta bị sự quyến rũ của trùng dương, đến mức vượt
biển tìm đất sống? Sự bành trướng duy nhất về phía Nam có phải là giải pháp duy
nhất không?
Nếu, thay vì Nam tiến, chúng ta vượt dãy Trường Sơn và mang
sinh lực của Dân Tộc lên chinh phục vùng Cao Nguyên, thì vận mạng của Dân Tộc
có trở thành hứa hẹn nhiều hơn ngày nay không, cả về phương diện trù phú cho
toàn dân, về phương diện tính khí của con người và về sự tiến hóa của văn minh
của chúng ta. Trả lời tất cả những câu hỏi trên đây là một điều vô cùng quan trọng,
một mặt để tìm hiểu cái hay và cái dở của sự lãnh đạo Dân Tộc trong dĩ vãng, và
một mặt khác, để nhận thức sự phát triển trong tương lai của Dân Tộc.
Và, sớm muộn gì, các nhà lãnh đạo của chúng ta, dưới sự thúc
đẩy của thực tế, và sức bành trướng tự nhiên của Dân Tộc, cũng phải tìm câu trả
lời thiết thực cho các câu hỏi trên.
Trong các dòng dưới đây, mặc dầu tính cách quan trọng của
các vấn đề vừa mới nêu lên, chúng ta sẽ cố tình gạt bỏ một bên và không đề cập
đến những vấn đề đó. Chúng ta chỉ tìm phân tích cuộc Nam tiến của chúng ta, từ
dãy Hoành Sơn đến Vịnh Thái Lan, trên phương diện hậu quả mà cuộc Nam tiến ấy
đã để lại cho Dân Tộc, và thử đánh giá cái vốn thuận hay nghịch mà ngày nay
chúng ta đang thừa hưởng.
Lịch trình Nam tiến.
Cuộc Nam tiến của chúng ta bắt đầu thật sự năm 1069. Và
chính Lý Thường Kiệt, một trong hai nhân vật Việt Nam duy nhất đã tìm cách đập
phá không khí thần phục nước Tàu lúc nào cũng bao trùm sự bang giao giữa chúng
ta và Trung Hoa đã mở màn cho cuộc Nam tiến. Sau khi bị Lý Thường Kiệt đánh bại,
Vua Chàm là Chế Củ bị bắt và cầm tù. Để chuộc mạng, Chế Củ cắt ba châu, Bố
Chánh, Địa Lý và Ma Lĩnh nhượng cho Vua Thánh Tông Nhà Lý, hiện nay là Tỉnh Quảng
Bình, và phía Bắc Quảng Trị. Công cuộc di dân bắt đầu, vào năm 1075 và dưới sự
lãnh đạo của chính Lý Thường Kiệt với tư cách Tổng Trấn Thanh Hóa.
Hơn hai trăm năm sau, năm 1301, Vua Nhân Tôn Nhà Trần, để củng
cố sự giao hảo giữa hai nước, Chàm và chúng ta, đã hứa gả Công Chúa Huyền Trân
cho Vua Chàm là Chế Mân. Năm 1306, để rước Huyền Trân về triều, Chế Mân cắt nhường
cho Vua Anh Tông Nhà Trần hai Châu Ô và Rí, nay là Nam Quảng Trị và Thừa Thiên.
Dân Tộc Việt đã xuống đến Đèo Hải Vân.
Một trăm bảy chục năm sau, năm 1471, Vua Thánh Tông Nhà Lê
đánh bại Vua Chàm Ban-ta-trà-toàn. Sau đó tất cả phần đất từ Đèo Hải Vân đến
Đèo Cù Mông, gồm các Tỉnh hiện nay là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Bắc Bình Định được
xáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn tại Thuận Hóa, thì lãnh
thổ Việt Nam đã gồm tới Đèo Cù Mông từ gần một trăm năm rồi, và nước Chàm đã được
xem như là bị tiêu diệt.
Do đó, sự thôn tính phần đất còn lại của Chàm do Nguyễn
Hoàng và con cháu, không còn khó khăn như xưa nữa.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng, muốn tăng cường lực lượng của mình để
đương đầu với Chúa Trịnh phía Bắc, chiếm thêm phần đất chạy từ Đèo Cù Mông xuống
đến Sông Cầu, Phú Yên ngày nay.
Năm 1653, để trừng phạt Vua Chàm là Bá Thâm, vì tội muốn lợi
dụng mậu thuẫn nội bộ của gia đình họ Nguyễn, Chúa Hiền lại chiếm cứ vùng đất
chạy đến Sông Phan Rang, hiện nay là Tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1693, Quốc Chúa, Nguyễn Phúc Chú thôn tính tất cả nước
Chàm đến Bình Thuận ngày nay, sau khi bắt giam Vua Chàm là Bá Tranh.
Trước khi nước Chàm bị hoàn toàn thôn tính, Việt Nam đã bắt
đầu di dân sang các phần đất bỏ hoang của nước Cam Bốt tại hai địa điểm Mô Xóa
(Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa). Từ Thế Kỷ XV, nước Cam Bốt, vì nội loạn và sự
tấn công không ngừng của Thái Lan đã bắt đầu suy sụp. Năm 1658, cuộc khủng hoảng
nội bộ trầm trọng đến nỗi Vua Cam Bốt xin thần phục Chúa Hiền, và cam kết triều
cống và bảo vệ Việt kiều. Bắt đầu từ năm đó, làn sóng Nam tiến của chúng ta đã
tràn sang Cam Bốt.
Năm 1690, thừa cơ hội một cuộc nội chiến ở Cam Bốt, và vì lý
do Vua Cam Bốt không giữ lời cam kết, Chúa Mại đặt dưới quyền cai trị trực tiếp
của Việt Nam, các vùng đất có Việt kiều ở. Và năm 1698, để chính thức hóa tình
trạng trên, Chúa Mại thành lập hai Tỉnh Tân Biên (Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia
Định) gồm các vùng có Việt kiều và người Tàu đã thần phục Nhà Nguyễn, mà hiện
nay là các Tỉnh Miền Đông, Gia Định, Long An và một phần Định Trường.
Năm 1732 các Tỉnh Tiền Giang hiện nay, lại được đặt làm Phủ
Huyện của Việt Nam, và năm 1757, các Tỉnh Hậu Giang, trừ An Xuyên, Hà Tiên và một
phần Kiên Giang. Tất cả các phần đất sau này, do Mạc Thiên Tứ chiếm cứ và mở
mang, mặc dầu đã được đặt thuộc quyền Nhà Nguyễn từ năm 1708, nhưng mãi đến năm
1780, Việt Nam mới kể là hoàn toàn chiếm cứ.
Hai giai đoạn Nam tiến.
Cuộc Nam tiến tạo thành lãnh thổ hiện nay của chúng ta có thể
xem là đã kéo dài từ năm 1069 đến 1780, chia làm hai giai đoạn lớn. Giai đoạn từ
1069 đến 1693 đi từ dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận và chiếm cứ các đồng bằng nhỏ
bé dọc theo Trường Sơn. Giai đoạn từ 1690 đến 1780, và chiếm cứ hết Đồng Bằng Hạ
Lưu Sông Cửu Long.
Thời gian hơn 600 năm, để chiếm cứ những vùng đất nhỏ hẹp ở
Trung Việt, và thời gian không đầy một trăm năm, để chiếm cứ các vùng đất minh
mông của Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Sự khác biệt giữa hai thời gian trên là nguyên nhân của những
hậu quả vô cùng quan trọng mà chúng ta phân tích dưới đây.
Ngoài ra, những sự kiện lịch sử, đã xảy ra trong hai khoảng
thời gian đó, góp một phần rất nặng vào những hậu quả nói trên.
Trong khoảng thời gian từ 1061 đến 1693, sự chiếm cứ tất cả
các phần đất mới lấy được của Chàm, mặc dù chúng ta phải đối phó với những phản
ứng đôi khi mãnh liệt của Dân Tộc Chàm, không hề bị ảnh hưởng tai hại của các
biến cố nội bộ. Vì đó mà việc di dân và tổ chức các đất mới, theo cơ cấu xã hội
Việt Nam được thực hiện một cách có qui củ và liên tục từ ngày chiếm cứ.
Trái lại sự chiếm cứ các đất ở phía Nam, lấy được của Cam Bốt
vào khoảng cuối Thế Kỷ 17, chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh giữa
Nguyễn Ánh và Tây Sơn, gây điêu tàn cho cả Dân Tộc từ Bắc chí Nam. Vì vậy mà,
các phần đất mới chiếm được, từ khoảng này về sau không được hưởng một sự di
dân và một sự đặt cơ cấu mới, có qui củ và liên tục. So sánh những phần đất chiếm
được ở Trung và ở Nam trong cuộc Nam tiến chúng ta nhận thấy các điều như sau:
* Các phần đất ở Trung nhỏ hẹp.
* Các phần đất ở Nam rộng lớn.
Trong sáu trăm năm chúng ta mới chiếm được các phần đất ở
Trung đi từ dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận.
Trong không đầy một trăm năm chúng ta chiếm được cả Đồng Bằng
Hạ Lưu Sông Mê Kông.
Các phần đất ở Trung phần sau khi chiếm được, chúng ta đều
có một thời gian dài và yên ổn để di dân và tổ chức cơ cấu xã hội.
Đối với các phần đất ở Nam phần, vừa sau khi chiếm được,
chúng ta bị chiến tranh nội bộ tàn phá, cho nên cuộc di dân rất hỗn độn và sự tổ
chức cơ cấu xã hội vô cùng thiếu sót.
Vì những lý do trên cho nên sự chiếm cứ các Vùng Đồng Bằng ở
Trung phần tuy là chưa hoàn bị nhưng cũng có thể xem là tạm xong. Trái lại cuộc
chiếm cứ Đồng Bằng Hạ Lưu Sông Mê Kông hoàn toàn chưa xong.
Sau khi thống nhất quốc gia năm 1802, Nguyễn Triều bắt tay
ngay vào việc kiến thiết quốc gia, nhưng chỉ năm mươi năm sau, chúng ta bị Tây
phương tấn công, và tiếp theo đó, bị đế quốc Pháp thống trị. Trong khoảng năm
mươi năm, dầu nỗ lực đến đâu, nhưng với cái tốc độ của những biện pháp lúc bấy
giờ, Nhà Nguyễn cũng chỉ có thể củng cố địa vị, và nhiều lắm là tạm hàn gắn các
vết thương của mấy Thế Kỷ nội chiến. Và năm chục năm, vừa hơn một thế hệ, chưa
đủ để cho sự tổ chức cơ cấu xã hội, ở các vùng mới chiếm cứ, có thời giờ ăn rễ
một cách đủ bảo đảm cho sự tồn tại của các truyền thống Dân Tộc. Đó là trong
trường hợp mà các nhà đương quyền có thật sự nhận thức việc tổ chức cơ cấu xã hội
là một công cuộc tối quan hệ, cần được xem là trọng tâm.
Nhưng về điểm này, các Sử Gia của chúng ta sau này, cần sưu
tầm xem việc tổ chức cơ cấu xã hội ở các vùng mới chiếm cứ trong Nam, có phải
là mối lo âu của Nguyễn Triều không. Tới nay, chưa có tài liệu nào xác nhận điều
đó.
Nhiều hậu quả.
Một sự kiện có thể là một nguyên nhân khác, thuộc về loại
nhân sinh, của sự chiếm cứ chưa rồi của chúng ta, đối với miền Nam. Trong tám
trăm năm, dân số của chúng ta, sinh sống ở Đồng Bằng Sông Hồng Hà và các đồng bằng
con con ở Trung Việt, đã có một mức gia tăng trung bình. Mỗi khi nhân khẩu lên
cao, áp lực thúc đẩy chúng ta chiếm thêm đất cày ruộng. Nếu căn cứ theo nhận
xét rằng, trong sáu trăm năm áp lực nhân khẩu của chúng ta có thể thỏa mãn được,
bằng sự chiếm cứ thêm các Vùng Đồng Bằng con con ở Trung Việt, thì áp lực ấy
không to lớn lắm, và do đó, tỷ lệ gia tăng của dân số có một mức nhất định. Đột
nhiên, chúng ta mở được cửa của Vùng Đồng Bằng Mê Kông. Nhu cầu di dân, để chiếm
cứ các vùng đất mới, vượt quá sức sinh sản của chúng ta. Do đó, chúng ta không
đủ dân số để chiếm cứ Đồng Bằng Sông Cửu Long. Sự kiện trên đây cần được xác nhận
bằng những con số về dân số của chúng ta từ những năm 1000 trở về sau, điều mà,
trong tình trạng hiện nay, khó cho chúng ta có được.
Đúng ra, sự chiếm cứ
có thể thực hiện được bằng những cuộc di dân lớn lao và có tổ chức, để, đồng thời,
tháo áp lực nhân khẩu miền Bắc và di dân vào Nam. Đằng này, chúng ta chỉ thấy sử
sách chép lại tổ chức dinh điền và đồn điền của Nguyễn Tri Phương ở miền Nam, một
biện pháp đã có thành quả khi chiếm cứ miền Trung, nhưng rõ ràng không xứng
đáng với công cuộc chiếm cứ đang đợi ở miền Nam. Trong khi đó Triều Nguyễn phải
dồn nhiều nỗ lực mở mang miền Bắc để nuôi dân, như công cuộc khai khẩn của Nguyễn
Công Trứ ở Thái Bình và Ninh Bình.
Các sự kiện trên chứng
tỏ quan niệm không thích nghi của Nhà Nguyễn đối với các đại công tác trên lĩnh
vực quốc gia lúc bấy giờ, vừa trên phương diện trọng tâm vừa trên phương diện vị
trí địa dư. Những lý do chính trị, trong đó sự kiện lòng dân chưa định là một,
có thể ảnh hưởng đến các quyết định của Nguyễn Triều đối với miền Bắc. Nhưng,
chúng ta sẽ thấy dưới đây, hậu quả chính trị của các biện pháp trên của Nguyễn
Triều còn tai hại gấp mấy lần các hậu quả kinh tế và nhân sinh.
Một phần đất mới chiếm
cứ, trên đó dân cư thưa thớt, tổ chức xã hội chưa có, tập quán cổ truyền của
Dân Tộc chưa cố định trong đời sống thường ngày của dân chúng, ý thức quê hương
xứ sở chưa ăn rễ vào khung cảnh mới, là một nhược điểm trên thân thể quốc gia,
về phương diện quốc phòng. Đó là những nơi mà kẻ xâm lăng đánh vào trước hết, bởi
vì họ cũng ý thức rằng, sức kháng cự của một lớp dân chúng chưa mọc rễ vào địa
phương chắc chắn sẽ không đáng kể. Và, đương nhiên, những nơi đó là những vùng
mà họa xâm lăng, một đe dọa thường trực đối với các quốc gia nhỏ, như quốc gia
chúng ta, có thể bắc cầu, một cách hiệu quả, để lan tràn khắp đất nước. Vì vậy
mà, miền Nam dưới Triều Nguyễn, đã trở thành một vùng hiểm địa cho toàn lãnh thổ.
Lịch sử đã xác nhận các sự kiện trên. Người Pháp hai lần tấn
công nước ta, đều đánh trước tiên vào miền Nam, lần đầu năm 1860 và các năm kế
tiếp. Lúc bấy giờ như trên chúng ta đã thấy, sự chiếm cứ của chúng ta đối với
miền Nam hoàn toàn còn đang dở dang. Tám mươi lăm năm dưới sự thống trị của
Pháp, cố nhiên là, chẳng những các dinh điền của Nguyễn Tri Phương đều bị tan
rã, mà lại sự chiếm cứ của chúng ta, nếu có tiếp tục vì áp lực nhân khẩu đương
nhiên, đã được thực hiện một cách hỗn độn, vì thể theo quyền lợi của các tổ chức
kinh tế thực dân Pháp, chớ không làm sao theo đường lối ấn định bởi quyền lợi của
Dân Tộc. Vì thế cho nên, sau tám mươi lăm năm, sự chiếm cứ của chúng ta đối với
miền Nam vẫn ở trong tình trạng dở dang như trước. Và vì thế cho nên, lần thứ
hai năm 1945, người Pháp, ngoài các lý do kinh tế và quân sự, lại đánh chiếm miền
Nam trước, một lần nữa.
(Tiếp Phần IIIb)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét