Làm sao cải tiến giáo
dục?
Ngô Nhân Dụng
Tương lai kinh tế một
quốc gia tùy thuộc vào nền giáo dục hiện tại. Một cuộc nghiên cứu của Ðại Học
Oxford, Anh quốc, cho biết “47% các công việc hiện đang làm bây giờ sẽ biến mất
trong tương lai, vì sẽ được làm bằng máy tự động.” Bộ Lao Ðộng chính phủ liên
bang cũng cho dân Mỹ biết rằng “65% học sinh đang ở bậc tiểu học bây giờ, khi lớn
lên sẽ làm những 'công việc mới' hiện nay chưa có ai làm cả.”
Thế giới đang thay đổi
rất nhanh. Nhiều công ty lớn nhất thế giới bây giờ, trước đây 10 năm, 20 năm
chưa ra đời. Không những thế, trước đây 10 năm chưa ai nghĩ ra được những công
việc mà các công ty như Apple, FaceBook, Google hay Ali Baba đang làm, chưa ai
tưởng tượng được những sản phẩm, dịch vụ mà họ đang “bán” cho người tiêu thụ. Tạp
chí Fortune thường lập danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới. Trước đây, một
công ty lọt vào bảng vàng này sẽ giữ được chỗ trong đó trung bình 75 năm; bây
giờ thì khoảng 15 năm là rớt ra ngoài, bị “bọn trẻ” thay thế. Trong số 500 công
ty được ghi nhận năm 1955, giờ chỉ còn hơn 50 sống sót, số còn lại đã biến mất
hoặc tụt xuống, ra ngoài bảng vàng. Những công ty sống sót đều dựa vào khả năng
thích ứng, sáng tạo không bao giờ ngưng.
Các nước Anh, Mỹ đã
tiến bộ khá nhiều, mà người ta còn lo lắng phải chuẩn bị cho học sinh bây giờ
thích ứng được với đời sống kinh tế trong tương lai. Nước Việt Nam mình còn đi
chậm hơn nhiều, nếu trong tương lai dân mình tiến được bằng người ta thì có lẽ
số “công việc mới” sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn 65%.
Muốn tiến bộ thì phải
phải tiên liệu và cải tổ nền giáo dục, đón trước tương lai. Thử tưởng tượng, nếu
20 năm nữa mà người Việt Nam vẫn cứ làm những công việc như bây giờ mình đang
làm, từ anh nông dân tự kéo cày đến cảnh vá lốp xe đạp bên đường, thì nước mình
còn lệt bệt sau chân thiên hạ đến thế nào?
Cho nên, phải cải thiện
giáo dục. Ðó là mối lo của cả nước.
Nền giáo dục nước ta
cần rất nhiều cố gắng tập thể của tư nhân, chứ không thể chỉ trông cậy vào guồng
máy chính quyền. Ở trong nước có nhiều nỗ lực tư giúp cho việc học và dạy dỗ tốt
hơn. Nhóm Cánh Buồm là một thí dụ. Nhóm do Giáo Sư Phạm Toàn sáng lập, trưởng
nhóm là nhà giáo Nguyễn Thị Thanh Hải. Vào trang chủ của nhóm Cánh Buồm chúng
ta thấy rất nhiều cống hiến cụ thể mong giúp cho việc dậy trẻ hiệu quả hơn, có
ích lợi hơn. Họ viết: “Nhóm Cánh Buồm tự giao nhiệm vụ... in sách mỗi năm. Sách
in ra phần lớn dùng làm quà cho các nhà nghiên cứu hoặc các vị muốn dùng để dạy
con em hoặc muốn nâng cao chất lượng công việc nhà giáo tiểu học.” Một công việc
đã làm là “làm một cái mẫu tổ chức việc học từ bậc tiểu học những môn học khó
nhất, đó là: Tiếng Việt, Văn, Lối Sống,” và đã “cho ra mắt sách Lịch sử bậc tiểu
học.” Nhóm Cánh Buồm được nhiều vị có uy tín hỗ trợ, trong đó có các giáo sư
Hoàng Tụy, Ngô Bảo Châu, nhà thơ Hoàng Hưng và phu nhân, các nhà văn Chu Hảo và
Nguyên Ngọc, và rất nhiều vị khác.”
Những cố gắng tư
nhân, hoàn toàn vô vị lợi như trên rất đáng kính trọng và đáng hỗ trợ. Giống
như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ trước năm 1945, hay Hội Khoa Học Kỹ Thuật ở miền Nam
trước năm 1975. Ðó là những bằng chứng cho thấy người Việt Nam đã có truyền thống,
lúc nào cũng sẵn sàng xây dựng một “xã hội công dân.” Xã hội công dân là môi
trường những người thiện chí có thể làm bổn phận công dân và thi hành quyền
công dân của mình, tập họp với nhau cùng giải quyết những vấn đề chung, trên
căn bản tự do, tự nguyện.
Nhưng nhìn vào những
cố gắng như của Nhóm Cánh Buồm, chúng ta thấy ngay một điều là xã hội công dân
của mình còn rất nghèo, không đủ sức vực dậy nền giáo dục. Ở nước nào cũng vậy,
chính quyền đóng vai trò quan trọng nhất, nếu không thì các quốc gia đã không
thành lập những “bộ giáo dục.” Chính quyền thường đóng vai chính, vì đó là nơi
có ngân sách lớn nhất, lại là nơi có quyền hành quyết định mà tư nhân không được
phép.
Như trong câu hỏi “Phải
cải thiện cái gì trong nền giáo dục?” Chính quyền được quyền việc sử dụng công
quỹ do dân đóng góp; họ nắm quyền chọn ưu tiên nên chi tiêu vào các việc nào.
Nên nuôi thêm nhiều công an hay nên tăng lương cho giáo chức? Làm thêm khu giải
trí, sòng bài, hay xây thêm trường học? Giáo dục là một cuộc đầu tư tạo ra những
“tài sản vô hình” (intangible assets), khác với các tài sản hữu hình như cầu,
đường, máy móc, hệ thống điện, nước. Các quốc gia bây giờ có thể nhìn vào tấm
gương của các công ty đã thành công. Với 500 công ty lớn nhất do Standard &
Poor chọn, trước đây nửa thế kỷ họ đầu tư 80% vào các tài sản hữu hình, 20% vào
các phát minh, sáng chế. Hiện nay, tỷ số đã đổi ngược; họ đổ tiền 80% vào các
“tài sản vô hình,” chỉ còn 20% vào các thứ có thể nhìn thấy, đo đếm được.
Hiển nhiên, muốn kinh
tế Việt Nam tiến bộ, chúng ta cũng phải đầu tư vào giáo dục nhiều hơn là bỏ tiền
xây những “công trình” để nuôi một guồng máy tham nhũng. Vậy nền giáo dục nước
ta cần “Cải thiện cái gì?”
Phải huấn luyện các
thanh thiếu niên có khả năng giúp nước cạnh tranh cùng các nước trong vùng,
trong 20, 30 năm tới. Giới trẻ cần học những kỹ năng căn bản để nước mình có thể
bước vào thế kỷ 21. Các công ty quốc tế sẵn sàng đầu tư huấn luyện kỹ năng mới
cho công nhân để họ sử dụng, chỉ cần thiết lập các trường chuyên môn đứng đắn
là có thể thu hút vốn đầu tư của họ. Nhưng ngoài các kỹ năng, giới trẻ cần được
đào tạo được tinh thần cầu tiến.
Các nước tiên tiến ở
Châu Âu, Châu Mỹ đã vươn lên được trong mấy thế kỷ qua nhờ nuôi dưỡng được tinh
thần tìm tòi, sáng tạo. Hiện nay các nước này mỗi năm dùng 250 tỷ Mỹ kim chỉ
dành cho công việc nghiên cứu (R&D). Nếu muốn cạnh tranh với các nước chung
quanh, thanh niên Việt Nam cần phải rèn luyện được tinh thần tìm tòi, sáng tạo,
vượt ra ngoài khuôn khổ những thói quen suy nghĩ cũ. Các nước Á Ðông như Nhật Bản,
Nam Hàn, Ðài Loan, Singapore, Malaysia cũng tiến bộ nhờ đầu tư vào “hạ tầng cơ
sở mềm,” (soft infrastructure), nhắm xây dựng nền “kinh tế tri thức” của thế kỷ
21.
Nền giáo dục của họ cố
tạo cho thanh niên một “phong hóa sáng tạo” (culture of creativity). Sinh viên,
học sinh phải tập suy nghĩ theo tinh thần khoa học, học tập cách truyền đạt các
hiểu biết, ý kiến của mình một cách hữu hiệu. Khi những tập quán trong phong
hóa sáng tạo đã thấm vào đầu óc giới trẻ, họ lớn lên với tinh thần cầu tiến,
nuôi khát vọng thể hiện những ý kiến mới của mình, luôn luôn muốn mình cao hơn,
xa hơn.
Từ đầu, bài này đưa
kinh tế ra làm chỉ tiêu, chuẩn mực để thúc đẩy cải thiện giáo dục. Nhưng đến kết
luận thì chúng ta thấy vấn đề lớn nằm trong phạm vi tinh thần, trong văn hóa.
Các nước Á Ðông phát triển kinh tế trong thời 1970-80 là nhờ họ đã phát động một
cuộc phục hưng văn hóa. Nền giáo dục của họ đề cao các đạo lý truyền thống, đặt
Tín Nghĩa lên hàng đầu. Trường học của họ thể hiện một triết lý dân chủ, tôn trọng
khả năng của mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các khả năng đó được thể hiện tối đa.
Triết lý này không thể chỉ phát huy trong riêng ngành giáo dục, phải được biểu
hiện trong đời sống, phải thấm nhuần trong tinh thần của toàn thể xã hội. Muốn
cải thiện giáo dục, cả xã hội phải tạo một “tinh thần thời đại mới,” như chữ
Zeitgeist trong tiếng Ðức; hay một “Hồn tính mới” như chữ Ethos trong tiếng anh
(gốc Hy Lạp, ἔθος). Khi giới trẻ hăng hái cầu học, tin tưởng rằng những người
có khả năng và cố gắng nhất sẽ tiến thân nhanh nhất, nước ta sẽ có một Ethos mới,
một Zeitgeist mới.
Khi nghĩ tới điều đó,
sẽ nhận ra thiếu sót lớn nhất ở nước ta hiện nay. Tinh thần thanh niên uể oải,
thờ ơ, không tin tưởng vào tương lai. Những người hăng hái nhất, năng nổ nhất,
dễ bị thất vọng vì đụng tới đâu cũng gặp chướng ngại. Cứ nhìn vào tấm gương các
bạn trẻ như Nguyễn Phương Uyên, Ðinh Nguyên Kha và các blogger đang bị tù. Một
chính quyền cực kỳ bảo thủ, không dám tự thay đổi, không muốn thay đổi xã hội,
từ kinh tế đến chính trị, thì không thể khuyến khích tinh thần cầu tiến trong
giới thanh niên.
Ngô Nhân Dụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét