Hoạt động của Chính phủ Trần Trọng Kim (17.04.1945 - 23.08.1945)
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Chính
phủ Trần Trọng Kim chỉ hoạt động từ tháng 4-1945 đến tháng 8-1945,
nhưng đã đặt nền móng căn bản cho nền hành chánh tương lai Việt Nam,
chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn rất hữu ích cho sự phát triển
văn hóa Việt Nam và chính phủ Trần Trọng Kim đã góp phần rất lớn trong
việc giải quyết nạn đói ở Bắc Việt Nam.
*
Thu hồi và thống nhất lãnh thổ
Trong phiên họp đầu tiên của nội các, luật sư Trần Văn Chương, bộ trưởng
Ngoại giao, người cao tuổi nhất, được bầu làm nội các phó tổng trưởng
(phó thủ tướng). Chính phủ đổi Bắc Kỳ thành Bắc Bộ, Trung Kỳ thành Trung
Bộ, Nam Kỳ thành Nam Bộ, dầu lúc đó Nam Bộ chưa chính thức được sáp
nhập vào trung ương.
Trần Trọng Kim cử Trần Văn Chương ra Hà Nội thương lượng với tướng
Yuichi Tsuchihashi, tổng tư lệnh quân đội Nhật, kiêm toàn quyền Đông
Dương, về sáp nhập Bắc Bộ vào Việt Nam. Phía Nhật không trở ngại. Ngày
2-5-1945 vua Bảo Đại cử Phan Kế Toại, xuất thân trường Hậu bổ Hà Nội và
trường Thuộc địa Paris là trường chuyên đào tạo quan chức thuộc địa
Pháp, nguyên tổng đốc Bắc Ninh, làm khâm sai Bắc Bộ. Phan Kế Toại chính
thức nhận chức tại phủ thống sứ cũ, nay được gọi là Bắc Bộ phủ, ngày
5-5-1945.
Ngày 13-7-1945, đích thân Trần Trọng Kim ra Hà Nội thương thuyết. Toàn
quyền Nhật Bản Yuichi Tsuchihashi chịu trả ba thành phố Hà Nội, Hải
Phòng và Đà Nẵng, vốn là nhượng địa của Việt Nam cho Pháp từ năm 1888.
Chính phủ bổ nhiệm Trần Văn Lai làm đốc lý (thị trưởng) Hà Nội, Vũ Trọng
Khánh làm đốc lý Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong làm đốc lý Đà Nẵng.
(David G. Marr, Vietnam 1945, the Quest for Power, University of California Press, 1995, tt. 132-133.)
Nam Kỳ (cũ) nay là Nam Bộ vốn là thuộc địa của Pháp, theo quy chế riêng.
Vì vậy, lúc đầu người Nhật trì hoãn việc trả Nam Bộ, nhưng sau người
Nhật chịu giao Nam Bộ lại cho Việt Nam từ ngày 8-8-1945. (David G. Marr,
sđd. tr. 135.)
Nguyên nhân có thể lúc đó Hoa Kỳ thả bom nguyên tử ngày 6-8-1945 xuống
Hiroshima, Nhật sắp sửa đầu hàng Đồng minh và rút quân về nước, nên Nhật
mới chịu rời Nam Bộ. Ngày 14-8-1945, vua Bảo Đại ký dụ bổ nhiệm Nguyễn
Văn Sâm làm khâm sai Nam Bộ. (Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8/1945), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 106.)
Trong khi đó, Hoa Kỳ thả bom nguyên tử lần thứ hai xuống Nagasaki ngày
9-8-1945, thì ngày 14-8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Vì vậy,
quân Nhật ở Sài Gòn chưa kịp bàn giao Nam Bộ trở về lại với Việt Nam
thì chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Việt Minh nổi lên cướp chính quyền.
Giáo dục và thanh niên
Về giáo dục, chính phủ chủ trương dùng quốc ngữ giảng dạy thay chữ Pháp,
và rất chú trọng đến ngành giáo dục kỹ thuật. Cầm quyền chưa được hai
tháng, vào ngày 8- 6-1945, chính phủ quy định rằng từ đây, chữ quốc ngữ
và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở các công sở và trường học. Trong
trường học, Pháp văn được giảng dạy như một ngoại ngữ. (Phạm Hồng Tung, Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2009, 241.)
Kỳ thi tiểu học năm nay là kỳ thi đầu tiên bằng quốc ngữ, và dự định sẽ
dùng quốc ngữ trong các kỳ thi cao hơn. Chương trình trung tiểu học được
Việt Nam hóa, do bộ trưởng bộ Giáo dục Hoàng Xuân Hãn đưa ra. Chương
trình nầy là nền tảng căn bản cho chương trình giáo dục của các chính
phủ trong chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa sau này.
Bộ trưởng bộ Thanh niên Phan Anh có sáng kiến vận động thành lập trường
Thanh niên tiền tuyến. Trường do Phan Tử Lăng làm hiệu trưởng, khai
giảng khóa đầu tiên ngày 2-7-1945 gồm 43 học viên, hướng dẫn học viên
hoạt động xã hội và cả quân sự. Trụ sở trường đặt tại một trại lính hộ
thành cũ, phía trước cửa Quảng Đức. Cửa nầy ở phía nam kinh thành Huế,
bên tay trái của Thượng Tứ từ ngoài nhìn vào. (Cửa Quảng Đức bị sập
trong trận lụt năm 1953 nên còn được gọi là cửa Sập.) Phong trào thanh
niên tham gia hoạt động xã hội phát triển trên toàn quốc. Ở trong Nam,
phong trào thanh niên được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đặt tên là “Thanh niên
tiền phong”.
Các đoàn thanh niên nầy góp phần đắc lực trong việc vận động cứu đói
đồng bào Bắc Bộ. Từ đó ý thức xã hội và tinh thần dân tộc quật khởi mạnh
mẽ trong giới thanh niên. Phong trào thanh niên đang hăng say hoạt
động, thì chính phủ Trần Trọng Kim từ chức sau khi Nhật bại trận.
Nhiều thanh niên xuất thân từ phong trào nầy chuyển qua hoạt động cho
Việt Minh khi Việt Minh chiếm chính quyền 19-8-1945. Việt Minh sử dụng
những lực lượng thanh niên nầy cho các nhu cầu chính trị của đảng Cộng
Sản.
Những dự án cải cách
Ngày 30-6-1945, vua Bảo Đại ban hành đạo dụ số 69 thành lập Ủy ban Dự
thảo hiến pháp gồm 15 ủy viên: Phan Anh (thuyết trình viên), Hoàng Đào,
Vũ Đình Hòa, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thai
Mai, Vương Quang Nhường, Nguyễn Tường Long, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn
Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác. (Việt Nam tân báo, số ra ngày 7-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tt. 236-237.)
Đạo dụ số 70 của vua Bảo Đại thành lập Ủy ban Cải cách cai trị, tư pháp
và tài chánh gồm 15 ủy viên: Vũ Văn Hiền (thuyết trình viên), Trần Văn
Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hòe, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như
Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo, Phan Kế Toại. (Việt Nam tân báo, số ra ngày 9-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr. 237.)
Ủy ban Cải cách Giáo dục hình thành do đạo dụ số 71 của vua Bảo Đại gồm
18 ủy viên: Hoàng Xuân Hãn (thuyết trình viên), Nguyễn Thanh Long, Hoàng
Thị Nga, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám,
Nguyễn Thanh Giang, Ngụy Như Kon-Tum, Hồ Văn Ngà, Bùi Kỷ, Nguyễn Quang
Oánh, Nguyễn Phúc Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn
Thinh, Hoàng Đạo Thúy, Nguyễn Xiển. (Việt Nam tân báo, số 10-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr. 237.)
Cuối cùng, đạo dụ số 83 do vua Bảo Đại ban bố ngày 1-7-1945 thành lập
Hội đồng tư vấn quốc gia, gồm cả ba ủy ban cải cách trên đây. (Các đạo
dụ vua Bảo Đại được công bố trên báo L'Action các ngày 2, 13, 17-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr. 236.)
Tất cả các ủy ban nầy tập trung nhiều nhân tài trên khắp ba miền đất nước, nhưng rất tiếc chưa hoạt động thì thời cuộc biến đổi.
Chính phủ Trần Trọng Kim cứu đói
Một trong những chương trình hành động khẩn cấp của chính phủ Trần Trọng
Kim là giải quyết nạn đói ở Bắc bộ. Nạn đói bắt đầu từ mùa đông năm
1944, lúc đó còn Pháp thuộc. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh, Pháp ở Đông
Dương.
Khi chính phủ mới được thành lập (17-4-1945), chính phủ Trần Trọng Kim
ra lệnh bãi bỏ việc bắt buộc nông gia bán lúa gạo cho nhà nước, và để
cho dân chúng tự do buôn bán gạo. Điều nầy có nghĩa là những quy định
trước đây về số lượng lúa gạo phải bán cho nhà nước theo diện tích canh
tác cũng bị bãi bỏ. Người dân được tự do vận chuyển buôn bán gạo dưới 50
kí lô mà không cần phải có giấy phép của chính quyền.
Ở các tỉnh, những ngân hàng nông nghiệp sẽ phụ trách mua gạo cho nhu cầu
quân sự hay nhu cầu thực phẩm của chính quyền dưới sự kiểm soát của
tỉnh trưởng. Những người nghèo đói còn sống sót và những người vô gia cư
được chính phủ tập trung vào những nhà nuôi dưỡng đặc biệt để phục hồi
dần dần.
Chính phủ thành lập ty "Liêm Phóng Kinh Tế", tức cảnh sát kinh tế, và
giao cho Nguyễn Duy Quế điều khiển, kiểm soát gắt gao giá gạo, nhằm ngăn
chận những vụ đầu cơ hay buôn lậu. (Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8/1945), sđd. tt. 95-96.)
Nhờ thế, việc đầu cơ tích trữ hay buôn lậu gạo giảm hẳn. Tình hình nông
gia được cải thiện nhờ giá bán cho nhà nước cao gấp 5 lần so với thời
gian trước đó dưới thời còn Pháp.
Vua Bảo Đại ra sắc chỉ ngày 23-5-1945 hủy bỏ nợ nần do các tiểu nông vay
tiền nhà nước trước đây. (Nguyễn Thế Anh, “The Great Famine of 1945", The Vietnam Review 4,
Spring-Summer 1998, Hamden, Connecticut, USA, tr. 469.) Chính phủ cho
hạ thấp mức thuế nông dân phải đóng góp. Bộ trưởng bộ Tiếp tế Nguyễn Hữu
Thí đến Sài Gòn vào đầu tháng 6-1945 để thương thuyết với người Nhật
nhằm thay đổi phương cách chở gạo từ Nam ra Bắc.
Để tránh bị phi cơ Đồng minh oanh tạc, gạo sẽ được chở bằng các đoàn
thuyền buồm thuê của thường dân. Bộ trưởng Nguyễn Hữu Thí còn đề nghị
đưa 1,000,000 dân từ Bắc bộ và Trung bộ vào định cư ở Nam bộ. (Nguyễn
Thế Anh, bđd. tr. 469.) Những chuyến xe hay những chiếc ghe chở
gạo từ Nam ra Bắc, khi quay trở về, thì chở di dân vào Nam lập nghiệp.
(David G. Marr, sđd. tt. 102-103.)
Ngày 30-6-1945, chính phủ Trần Trọng Kim cho đánh thuế du hý (vui chơi,
giải trí) để lấy tiền tài trợ cho những hoạt động cứu đói ở Bắc bộ.
Chính phủ mở chiến dịch báo chí thông tin về những bất hạnh của đồng bào
Bắc bộ để kêu gọi dân chúng tiếp tay cứu trợ. Những cuộc lạc quyên được
tổ chức trên toàn quốc. Chiến dịch nầy đem đến nhiều thành quả.
Tại Hà Nội, vào tháng 5-1945, Tổng hội Cứu tế quyên được 782,403 đồng.
Với số tiền nầy, Tổng hội đã mua được từ kho nhà nước 1,476 tấn gạo phát
chẩn cứu đói. (David G. Marr, sđd. tt. 102-103.) Ủy ban Cứu tế Trung
ương giúp đỡ Bắc bộ tại Huế và Ủy ban tương trợ giúp đỡ những nạn nhân
Bắc bộ tại Sài Gòn, được thành lập. Số tiền quyên góp được dùng mua gạo
chở ra giúp đỡ đồng bào đất Bắc. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 469.)
Tại Nam Bộ, chỉ nội trong tháng 5-1945, hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và
trong vòng một tháng đã quyên được 1,677,886 đồng, kể cả 481,570 đồng
mua và chuyên chở 1,592 tấn gạo ra Bắc giúp cứu đói. (Báo L'Action [Hành Động] các số 24-5 và 22-6-1945, Vũ Ngự Chiêu trích dẫn, sđd. tr. 96.)
Lực lượng tham gia các phong trào cứu đói chủ chốt là thanh niên, sinh
viên, học sinh và các đoàn thể đã được thành lập trong thời toàn quyền
Decoux, như Hướng đạo, Gia đình Phật tử... vì đã có kinh nghiệm đoàn ngũ
hóa. Đây là lần đầu tiên giới trẻ Việt Nam thực sự bắt tay vào hoạt
động xã hội. Những nhân vật nổi tiếng của phong trào nầy là Hoàng Đạo
Thúy, Tạ Quang Bửu (Hướng đạo), Lê Đình Thám (Gia đình Phật tử) ...
Những biện pháp của chính phủ cùng sự tiếp tay của đồng bào toàn quốc,
đã làm cho tình hình Bắc Bộ nhanh chóng trở lại bình thường. Vẫn còn một
vài nơi người nghèo sắp hàng trước các điểm phân phối thực phẩm miễn
phí, nhưng nói chung tình hình khá ổn định vào tháng 6-1945. (Nguyễn Thế
Anh, bđd. tr. 470.)
Nạn đói tưởng đã qua đi. Mặc dầu "Ủy ban Bảo vệ và Giám sát đê điều"
được thành lập để lo việc giữ đê, ngăn ngừa nước dâng lên gây lụt lội,
nhưng bất ngờ những cơn mưa như thác đổ vào tháng 8-1945 đã tràn ngập
tất cả các cánh đồng các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phúc Yên, Vĩnh
Yên, Hải Dương. Nạn mất mùa trở lại. Vài nơi thiếu gạo, dân chúng đã
phải ăn cả lúa giống để dành làm vụ mùa sau. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 470.)
Cộng sản phá rối
Khi nạn đói xảy ra năm 1945, đảng Cộng Sản Đông Dương và Việt Minh (VM)
lên án Pháp và Nhật là tác nhân gây ra nạn đói, và chống việc trưng mua
lúa gạo.
Ngày 17-4-1945, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập và lo chuyện cứu
đói, thì VM lợi dụng nạn đói để tuyên truyền và phát triển. Việt Minh
đả kích chính phủ Trần Trọng Kim, khích động dân chúng lăng nhục những
viên chức chính quyền lo việc cứu tế. Khi biết được Đức rồi Nhật sắp đầu
hàng Đồng minh, một mặt VM xúi giục dân chúng đánh phá các kho lúa. (Vũ
Ngự Chiêu, sđd. tr. 96.) Một mặt khác, VM đứng ra tổ chức cướp các kho
gạo. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions Du Seuil, 1952, tr. 131.)
Việt Minh còn âm thầm chận bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở
gạo từ miền Nam ra, rồi VM đem tiếp tế cho những mật khu của họ. (David
G. Marr, sđd. tt. 102-103.)
Việt Minh hợp tác và cung cấp tin tức cho phe Đồng minh, chính là cho
Hoa Kỳ, dùng máy bay bắn phá các trục giao thông, khiến việc tiếp tế
thực phẩm rất khó khăn. Ngày 23-7-1945, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bộ trưởng bộ
Y tế, trên đường đi công tác, từ Thái Bình trở về Hà Nội, đến gần Bần
Yên Nhân thì bị máy bay Đồng minh bắn chết. (Trần Trọng Kim, sđd. tr. 78.) Sự đi lại khó khăn đến nỗi chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp để chuyển công văn. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt. 96-97.)
Từ đó, nạn đói trầm trọng trở lại. Nạn đói càng trầm trọng thì VM càng
dễ tuyên truyền, vừa phản đối chính quyền, vừa chiêu dụ dân chúng bằng
cách dùng gạo cướp được để cứu đói những ai chịu theo VM. Nhạc sĩ Văn
Cao (1923-1995) đã tự nhận rằng ông theo VM vì bản thân và gia đình quá
đói. (Văn Cao, “Tại sao tôi viết Tiến quân ca”, viết ngày 7-7-1976, đăng
lại trong sách Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, TpHCM: Nxb Trẻ, 1988, tt. 14-17.)
Đây là một trong những lý do giúp cho thế lực VM cộng sản nhanh chóng
phát triển rộng rãi ở các vùng rừng núi và nông thôn vùng đông bắc Bắc
Kỳ trong thời gian nầy.
Nhìn lại chính phủ Trần Trọng Kim
Trong cuộc họp hội đồng chính phủ ngày 3-8-1945 tại Huế, Trần Trọng Kim
báo cáo công việc ra Bắc thương thuyết và thu xếp với người Nhật. Lúc đó
phó thủ tướng Trần Văn Chương có ý cho rằng Trần Trọng Kim thương
thuyết với người Nhật thành công là do công ông Chương ra Bắc trước đó.
(Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 88.) Không biết có phải vì cuộc
tranh công nội bộ hay vì nhận thấy tình hình thế giới biến chuyển và
nhất là tình hình Bắc Kỳ xáo trộn do những hoạt động của Việt Minh, Trần
Trọng Kim xin từ chức ngày 5-8-1945.
Vua Bảo Đại chấp thuận, nhưng yêu cầu Trần Trọng Kim duy trì chính phủ
lâm thời và ủy cho Trần Trọng Kim lập nội các mới. Trong tình hình lúc
bấy giờ, Trần Trọng Kim không mời đủ người tham gia chính phủ.
Ngày 20-8-1945, Trần Trọng Kim từ bỏ ý định tiếp tục cầm quyền và tuyên
bố đã hoàn thành hai sứ mệnh lịch sử là thống nhất lãnh thổ và đặt định
nền tảng hành chánh căn bản cho đất nước. (David G. Marr, sđd.
tr. 438.). Chính phủ của ông họp phiên chót ngày 23-8-1945 rồi tự giải
tán. Về phía vua Bảo Đại, hai ngày sau, 25-8-1945, nhà vua tuyên chiếu
thoái vị.
Nói chung, cả vua Bảo Đại và giáo sư Trần Trọng Kim đều muốn nhân cơ hội
Nhật đảo chánh Pháp để thoát ra khỏi nền bảo hộ của Pháp, tuyên bố độc
lập. Tuy chỉ cầm quyền chưa đầy 6 tháng, chính phủ Trần Trọng Kim đã
thực hiện được nhiều công trình đáng kể:
Chính phủ Trần Trọng Kim hợp nhất hai nền hành chánh Pháp và hành chánh
Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, thành nền hành chánh duy nhất Việt Nam.
Chính phủ cũng đã hợp nhất nhất Bắc Kỳ và Nam Kỳ vào chính phủ trung
ương Việt Nam.
Tháng 5-1945, Nhật giao Bắc Kỳ cho Việt Nam và được đổi thành Bắc Bộ.
Nhật cũng đồng ý giao Nam Kỳ cho Việt Nam vào tháng 8-1945, nhưng chưa
kịp thi hành thì VM cướp chính quyền. Nhật cũng trả ba nhượng địa là Hà
Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13-7-1945.
Trong hành chánh và trong giáo dục, thi cử, chính phủ Trần Trọng Kim
hoàn toàn dùng chữ quốc ngữ làm chuyển ngữ chính thức, không còn dùng
chữ Nho hay chữ Pháp. Chính phủ mở trường huấn luyện thanh niên, phát
triển phong trào thanh niên trên toàn quốc. Chính phủ cũng đã thành lập
ủy ban soạn thảo hiến pháp, ủy ban cải cách văn hóa, giáo dục, xã hội,
nhưng rất tiếc chưa hoạt động được thì chính phủ sụp đổ.
Chính phủ Trần Trọng Kim không thành lập quân đội để tự bảo vệ, nên khi
quân đội Nhật bại trận thì chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Điểm đặc
biệt là chính phủ Trần Trọng Kim được Nhật hậu thuẫn, nhưng từ khi thành
lập cho đến khi giải tán, chính phủ nầy hoạt động độc lập và không lệ
thuộc người Nhật.
Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ hoạt động từ tháng 4-1945 đến tháng 8-1945,
nhưng đã đặt nền móng căn bản cho nền hành chánh tương lai Việt Nam,
chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn rất hữu ích cho sự phát triển
văn hóa Việt Nam và chính phủ Trần Trọng Kim đã góp phần rất lớn trong
việc giải quyết nạn đói ở Bắc Việt Nam. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước 2014).
(Toronto, Canada)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét